Học viện kỹ thuật quân sự
Hãy đăng nhập để có thể dùng đầy đủ chức năng của forum

Join the forum, it's quick and easy

Học viện kỹ thuật quân sự
Hãy đăng nhập để có thể dùng đầy đủ chức năng của forum
Học viện kỹ thuật quân sự
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Học viện kỹ thuật quân sự

100 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội


You are not connected. Please login or register

Trong gia đình <Hector Malot> đọc xuong muốn :((

4 posters

Chuyển đến trang : 1, 2  Next

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 2 trang]

admin

admin
1st
1st

Phần I


MẤT MẸ


Những ngày thứ bảy, vào khoảng ba giờ chiều mấy vùng kế cận cửa ô
Bécxi thường bị tắc nghẽn. Trên lề đường, dưới ánh trăng tháng sáu đẹp
trời, xe cộ xếp hàng tự nối đuôi nhau: xe bò chất đầy thùng phuy, xe
ngắn chở than và vật liệu, xe nhỏ chở cỏ khô. Những chiếc xe ấy đợi sở
Thuế khám xét và nôn nóng được vào Pari trong đêm, trước ngày chủ nhật.

Về phía khá xa cửa chắn, giữa các cỗ xe có một chiếc hình dáng
dị kỳ, vừa thảm hại lại vừa buồn cười. Cái cỗ xe ấy có vẻ như là xe lưu
động ở các chợ phiên nhưng còn đơn giản hơn nhiều! Nó chỉ là một cái
sườn nhẹ, căng một tấm vải thô với cái mái bằng bìa cứng, quệt hắc ín.
Cỗ xe nằm trên bốn bánh thấp trệt.
Có lẽ trước kia, tấm vải ấy
màu da trời. Bây giờ nó bạc phếch và bẩn thỉu, nên người ta chỉ còn
biết phỏng đoán màu sắc của nó! Cũng như người ta đành phải ước đoán,
nếu như muốn biết những dòng chữ đã mờ nhạt, che kín bốn thành xe. Có
mặt chỉ còn mấy chữ đầu, nhưng người ta vẫn đoán là chữ Hy Lạp. Liền
bên dưới là chữ Đức. Và cuối cùng, còn tươi nét mực là chữ Pháp: Chụp
ảnh. Có lẽ đó là nội dung những dòng chữ trên. Như một tờ giấy đi
đường, những xứ sở mà chiếc xe khốn khổ đã lăn qua, trước khi vào nước
Pháp, và đến cửa ô Paris, đã được ghi rõ trên đó.
Con lừa thắng vào cỗ xe ấy, có thể nào đến đây, từ những nơi xa xôi như vậy nhỉ?
Thoạt nhìn qua, người ta không tin vì nó quá gầy, chỉ còn da bọc
xương, và kiệt sức. Khi nhìn kỹ, người ta nghĩ tình trạng kiệt quệ ấy
chỉ là kết quả của những nỗi mệt nhọc kéo dài trong đói khổ. Con lừa ấy
ăn không đủ no, mà lại phải đi quá xa!
Thật ra, trước kia con
vật ấy khỏe, khá to con, thon thả, cao hơn giống lừa châu Âu. Nó có bộ
lông màu xám tro với cái bụng màu sáng hơn, mặc dù bám đây bụi đường.
Nhiều vệt đen kẻ ngang, dọc, in dấu trên mấy cái đùi thon thả, với
những bàn chân có sọc. Dẫu mệt mỏi, nó vẫn gan góc, và kiêu hãnh, ngẩng
cao đầu. bộ yên của nó, cũng tồi tàn như cỗ xe, chắp nối bằng mấy sợi
dây to, nhỏ, đủ màu sắc, nhặt được tình cờ. Để che nắng và chắn ruồi
cho lừa, trên đường đi, người ta chặt những cành đơm hoa, những cây lau
sậy, phủ lên lưng nó, che luôn cả bộ yên.
Một em bé mười một, mười hai tuổi, ngồi trên lề đường, trông chừng nó.
Em gái ấy là một mẫu người kỳ lạ! Có nét thiếu hài hòa nhưng không
có gì là thô bạo trong mẫu người lai giống này. Mái tóc nhạt và màu da
hổ phách thật khá bất ngờ. Ngược lại, khuôn mặt có dáng nhẹ nhõm, dịu
dàng nổi bật vì đôi mắt dài, đen, láu lỉnh và nghiêm trang. Cái miệng
cũng vậy, trông thật đoan trang, nghiêm chỉnh.
Trong lúc nghỉ
ngơi, thân thể em được thoải mái, phơi bày những đường nét vừa dịu dàng
và cứng cáp như ở trên khuôn mặt. Đôi vai mềm mại đỏ xuôi trong chiếc
vét độn vai cũ kỹ, trước kia có lẽ là màu đen, bây giờ không biết là
màu gì. Một chiếc váy rộng tồi tàn, có nhiều miếng vá, che cặp đùi chắc
khỏe. Bộ cánh nghèo nàn ấy không làm giảm bớt chút nào cái vẻ tự hào
của em bé.
Trông giữ con lừa cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng vì
con vật đang đứng sau một chiếc xe lớn đang chở cỏ khô, nên thỉnh
thoảng nó gặm chơi một miếng cỏ to, rất cẩn thận và kín đáo. Là một con
vật rất thông minh, nó hiểu nó đang phạm lỗi.
- Thôi chứ, Palica!
Tức thì con vật cuối đầu, như một người có lỗi, đang ăn năn. Những
khi nó vừa nheo mắt, vẫy tai, ăn xong túm cỏ khô, thì nó lại vộ vàng
gặm một miếng nữa, vì nó đói quá!
Em bé vừa rầy nó, hình như lần thứ tư, thứ năm gì đó, thì trong xe có tiếng gọi:
- Perin!
Em vội vàng đứng lên, vén tấm màn, bước vào trong xe. Ở đây, một phụ
nữ đangnằm trên tấm nệm mỏng như dính chặt với tấm ván.
- Mẹ gọi con?
- Palica làm gì vậy?
- Nó ăn cỏ khô, chứa trong chiếc xe đứng trước xe chúng ta.
- Phải ngăn nó!
- Nó đói!
- Đói cũng không được phép lấy của người khác! Con sẽ trả lời thế nào với bác chủ xe, nếu bác nổi giận?
- Con sẽ kèm bên cạnh nó!
- Lát nữa, chúng ta có vào Paris được?
- Phải đợi sở Thuế kiểm tra, mẹ ạ!
- Có phải đợi lâu lắm không?
- Mẹ thấy mệt hơn trước ư?
- Con đừng lo, không có việc gì đâu!
Mẹ ngạt thở vì ẩm ướt! bà mẹ hổn hển, rít lên chứ không phát âm nổi!
Đó là những lời của một bà mẹ muốn làm yên lòng con gái. Sự thật là
bà đang ở trong tình trạng đáng thương: thở khó khăn, kệt sức, không
còn chút sinh lực nào!
Chưa quá hai sáu, hai bảy tuổi, bà đã
suy nhược quá mức! Bà còn giữ lại những đường nét của một vẻđẹp đoan
trang với khuôn mặt trái xuan, đôi mắt dịu dàng thắm thiết, giống hệt
đôi mắt cô con gái, nhưng sáng hơn vì đang sốt.
- Con kiếm cái gì cho mẹ nhé! Perin hỏi.
- Cái gì?
- Con mua cho mẹ quả chanh? Ở đây có cửa hàng. Con sẽ trở về ngay!
- Không! Hãy để dành tiền! chúng ta còn quá ít. Con hãy trở lại với Palica, đừng để nó rút trộm cỏ khô nữa.
Perin trở lại, đứng phía đầu con lừa. Vì xe cộ phải di động nên em
giữ nó đứng xa chiếc chở cỏ khô, để nó không rút được cỏ.
Lúc
đầu, nó không chịu. Nó muốn vươn tới phía trước. Nhưng Perin dỗ nó,
vuốt ve, hôn lên mũi nó. Thế là nó thỏa mãn, cụp đôi tai dài xuống và
đứng yên.
Không phải trông lừa, Perin có thể nhìn quang cảnh
chung quanh để giải trí. Có những con tàu nhỏ và những chiếu tàu kéo
qua lại trên sông. Mấy chiếc cần cẩu, vươn cần sắt như lấy bàn tay
bốc, dỡ hàng trên các xà lan, đổ đá, cát hay than lên xe goòng, xếp
những chiếc thùng dọc lề đường. Sự chuyển động của mấy con tàu, trên
những chiếc cần sắt dọc Paris, mà những vòm cầu ngăn cách, không cho ta
nhìn thấy thành phố. Chỉ phỏng đoán qua một màn sương mù đậm đen. Cạnh
Perin, ngay dưới mắt em, nhân viên sở thuế đang làm việc. Họ thọc những
chiếc xăm dài vào các cỗ xe chở rơm. Họ leo lên mấy thùng phuy chất
trên xe bò. Họ lấy khoan đâm thủng và hứng tia rượu vọt ra trong một
cái tách bằng bạc, nếm vài giọt rượu rồi họ nhổ ngay.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Tất cả những cái ấy đều mới, lạ! Perin chăm chú theo dõi, nên thời gian trôi qua mà em không hay.
Có một thằng bé trạc mười hai tuổi, có vẻ là một chú hề của một đoàn
xiếc lưu động, đi cac chợ phiên để biểu diễn, có những cỗ xe đang xếp ở
phía sau. Chú hề nhỏ đi ngang Perin đã mươi phút rồi mà em không để ý,
nên nó phải lên tiếng:
- Xem kìa, con lừa đẹp quá!
Perin không nói gì.
- Con lừa này có phải ở xứ chúng ta không? Nếu thế thì lạ thật?
Perin nhìn nó và thấy nó có vẻ ngoan nết, liền trả lời:
- Nó từ Hy Lạp đến.
- Từ Hy Lạp?
- Chính thế, tên nó là Palica.
- À, ra thế!
Mặc dù nó mĩm cười, như có vẻ thông thạo lắm! nhưng chắc chắn là nó
không hiểu, tại sao một con lừa từ Hy Lạp đến, lại mang cái tên Palica.
Nó lại hỏi:
- Hy Lạp chắc xa lắm hả?
- Rất xa.
- Thế thì đằng ấy từ Hy Lạp đến?
- Không, Palica đi từ Hy Lạp đến.
- Đằng ấy có đến dự lễ Thương binh không?
- Không.
- Thế thì đi đâu?
- Đến Paris.
- Đến Paris thì đằng ấy để cỗ xe ở đâu?
- Người ta nói ở Ôxe có những chỗ trống trên đại lộ các thành lũy.
- Đại lộ các thành lũy! Ối trời ơi!
- Không có chỗ để xe sao?
- Nhưng không phải có chỗ để cho đằng ấy! Chỗ thành lũy thì đều lắm!
Trong xe đằng ấy có đàn ông không? Những người lực lưỡng không sợ chơi
dao kia? Tôi muốn nói những biết đâm người và chịu cho người ta đâm trả
ấy!
- Chúng tôi chỉ có hai mẹ con. Mẹ tôi đang bệnh.
- Đằng ấy quý con lừa lắm nhỉ?
- Đúng thế!
- Thế thì sáng mai, người ta sẽ dắt nó đi mất! Đó mới là bắt đầu
thôi, còn đằng ấy sẽ thấy những gì khác nữa, chẳng tốt đẹp gì đâu! Hai
Béo báo cho đắng ấy biết vậy đấy!
- Có thật thế không?
- Trời ơi, sao lại không thật? Đằng ấy chưa đến Paris bao giờ hẳn?
- Chưa đến bao giờ!
- Người thấy ngay mà! Tụi ngốc nào đã nói với đắng ấy có thể đỗ xe nghĩ ở Ôxe? Tại sao không đến chỗ lão Hạt Muối?
- Tôi không quen ông ta.
- Lão làm chủ khu vực ở Guylô ấy mà! Ban đêm người ta đóng kín hàng
rào, đằng ấy không còn lo ngại gì. Người ta biết Hạt Muối nhanh chóng
nổ một phát súng đón những khách không mời, lần mò vào trong khu vực
của lão, trong đêm tối.
- Có đắt lắm không?
- Mùa
đông thì đắt đấy! Lúc ấy, ,mọi người đều muốn trở về Paris nhưng lúc
này lão chỉ lấy bốn mươi xu một tuần. Con lừa của đằng ấy sẽ tìm được
thức ăn dọc bờ tường, nhất là cỏ gai.
- Hình như nó khoái thứ đó.
- Thế thì nó trúng tủ rồi! với lại Hạt Muối không phải là hạng người xấu.
- Hạt Muối là tên lão?
- Người ta gọi thế bởi vì lúc nào lão cũng khát nước. Trước kia, lão
làm nghề bán giẻ rách và kiếm được khá nhiều tiền. Nhưng rỗi lão phải
bỏ nghề vì chẹt gãy tay. Còn lại một cánh tay, người ta không thể leo
lên các thùng rách. Thế là lão thuê một đám đất, mùa đông cho xe đậu,
mùa hè ai cần thì đến thuê. Lão chẳng có khoản kinh doanh nào khác. Lão
bán chó con đang bú.
- Guylô có xa đây không?
- Không. ở Xaron thôi! Những tớ đánh cuộc đằng ấy chưa biết Xaron.
- Tôi chưa hề đến Paris mà!
Chú bé giơ cánh tay ra trướ mặt, chỉ về phía bắc:
- Ra khỏi đây, hãy rẽ ngay phía tay phải và theo đại lộ cách thành
lũy trong vòng nửa giờ. Khi nào vượt hết đại lộ Vanhxen, thì rẽ phía
tay trái rồi hỏi thiên hạ. Ai cũng biết bãi Guylô mà!
- Cảm ơn
bạn, tôi sẽ nói với mẹ tôi. Này, bạn có trông hộ con Palica trong vài
phút không? Được thế, tôi sẽ thưa chuyện với mẹ tôi ngay bây giờ!
- Tớ vui lòng giúp đằng ấy! Tớ sẽ bảo nó dạy tiếng Hy Lạp cho tớ.
- Nhờ bạn trông chừng cho nó đừng gặm cỏ của người ta đấy!
Perin vào trong xe, nhắc lại những lời chú hề nhỏ vừa nó với mẹ.
- Nếu thế thì đừng chần chừ, phải đi Xaron thôi! Nhưng có tìm ra đường đi không? Con biết chúng ta sẽ vào Paris chứ?
- Hình như đường cũng dễ tìm.
Trước khi ra khỏi cỗ xe, em bé đến bên mẹ, cúi xuống và nói:
Mẹ ơi, có nhiều cỗ xe phủ bạt. Người ta đọc trên ấy: “Xưởng Marôcu”
và ở dưới là cái tên “Vunphran Panhđavoan”. Trên mấy tấm bạt thô che
những thùng rượu, xếp hàng dọc lền đường, người ta cũng đọc những chữ
ấy.
- Chuyện ấy có gì lạ đâu!
- Cái lạ là con thấy cái tên ấy được nhắc lại nhiều lần đến thế.
Khi Perin trở lại bên con lừa, con vật đang chúi mũi vào trong chiếc
xe cỏ khô. Như đang đứng trước máng cỏ, Palica bình thản ăn món ăn của
nó. Perin hét lên:
- Cậu để cho nó ăn cỏ ư?
- Hình như thế!
- Nếu bác chủ xe nổi giận thì sao?
- Làm sao nổi giận với tớ được.
Chú hề nhỏ đang đứng trong tư thế đón chờ địch thủ. Chú chống hai tay lên hông, ngả đầu về phía trước, thách thức:
- Ấy, ấy cứ chờ xem! Đồ khốn nạn!
Nhưng Palica không cần chú hề bảo vệ nó! Đã đến lượt nhân viên sở
thuế đùng mũi lao kiểm tra cái xe cỏ khô, và cho phép ra khỏi cổng gác.

- Bây giờ đến lượt xe cô bạn đấy! Tớ đi đây! Chào cô bạn nhé!
Hẹn sẽ gặp lại! Khi nào cô muốn biết tin tức của tớ thì cứ hỏi Hai Béo.
Ai cũng có thể trả lời cho bạn được.
Nhân viên mấy cổng gác ở
Paris đã quen thấy bao điều kỳ quái. Ấy thế mà khi người ta bức lên cỗ
xe chụp ảnh vẫn phải giật mình khi nhìn thấy người thiếu phụ đang nằm!
Đưa mắt kiểm tra, ông càng ngạc nhiên hơn vì chỉ gặp sự khốn khổ ở khắp
nơi.
- Bà không có gì để khai sao? – Ông ta hỏi trong lúc vẫn tiếp tục quan sát.
- Không ạ.
- Không có rượu, thực phẩm gì à?
- Không có gì cả?
Cái tiếng “không” được nhắc lại hai lần quả là cô cùng chính xác. Ngoài
tầm nệm, hai chiếu ghế rơm, một bàn nhỏ, một cái lò bằng đất, một máy
ảnh và vài dụng cụ làm ảnh, không còn có gì nữa, trong chiếc xe ấy.
Không có rương hòm, thúng mủng, cũng chẳng có quần áo.
- Được, xe bà có thể vào đi.
Qua khỏi cổng gác, Perin cầm dây cương cho Palica rẽ ngay phía tay
phải như Hai Béo đã dặn. Em cho xe đi theo đại lộ, men dọc chiều các
thành lũy. Trong đám cỏ úa phủ bụi bặm, có những vạt mòn nhẵn. Nhiều
người nằm sấp, giơ lưng, hãy nằm ngửa phơi bụng tùy theo múc độ đã quen
hay chưa quen với ánh sáng mặt trời. Trong lúc ấy, có những người vươn
vai, tỉnh giấc và đang chực chờ ngủ lại.
Những gì Perin nhìn
thấy trên gương mặt với đầu tóc rối bù như ổ quạn và bộ quần áo rách
rưới của họ giúp cho em hiểu. Thật thế, ở đây việc trật tự an ninh
không được bảo đảm với đám dân cư các thành lũy này. Có thể việc đâm
chém nhau dễ xảy ra lắm!
Em không dừng ở việc quan sát. Bây giờ
chuyện ấy không con thú vị với Perin! Họ nó có dính dáng gì với em! Em
đang nhìn về phía bắc, nghĩa là về phía Paris.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Thế ư? Những ngôi nhà xấu xí, những nhà xe, mấy cái sân bẩn thỉu,
các bãi cỏ cả đống những vật ô uế… là Paris đó sao? Cái thành phố Paris
mà Perin thường được nghe cha nhắc đến. Đã từ lâu, em mơ ước Paris, với
trí tưởng tượng của trẻ thơ. Paris lại còn thần tiên hơn, khi trên
đường đi, những chữ số trên trụ kilômét giảm dần! Và cũng là Paris đó
sao? Cái đám người ở dọc bên kia đại lộ, đàn ông lẫn đàn bà, đang nằm
ngang ngửa như những con thú, lẫn trong cỏ, mặt mày vô cùng dễ sợ.
Perin nhận ra dòng nước Vanhxen nhờ chiều rộng của nó. Em vượt qua,
rẽ tay trái và hỏi thăm bãi Guylô. Dù mọi người điều biết nơi, không
phải ai cũng đi theo cùng một đường. Thế là em đanh xe đi loanh quanh
trong những con đường mà người ta chỉ. Nhưng cuối cùng, em cũng đã dừng
lại trước một hàng rào làm bằng những tấm ván gỗ thông, hay gỗ chưa đẽo
vỏ, đã sơn hay bôi dầu hắc. Qua cửa chắn, mở toang ra hai cánh, Perin
nhìn thấy một chiếc xe chở khách cũ kỹ, không có bánh xe, nằm trên mặt
đất. Tuy những chiếc lều chung quanh đó, cũng chẳng xinh đẹp, em hiểu
ngầm đây là bãi Guylô. Perin không cần phải xác minh. Một bầy chó con,
khoảng một tá, béo tròn, đang lăng xăng trên cỏ, đã cho em biết là em
không nhầm.
Để Palica ở ngoài đường, Perin đi vào. Ngay tức khắc, bầy chó con nhảy lên chân em, gặm nhè nhẹ vào da và sủa lí nhí.
- Cái gì thế? Có tiếng hỏi.
Nhìn về phía nơi có tiếng nói, Perin thấy phía tay trái có một dãy
dài, có thể đó là một ngôi nhà với những mái tường bằng carô thạch cao,
bằng những tấm sa thạch, bằng ván gỗ, bằng những hộp thiếc nữa! mái nhà
được lợp bìa cứng và vải dầu. Những cánh cửa được che bằng giấy thay
kính. Tất cả đều được xây dựng và sắp xếp một cách vụng về, đơn giản.
người ta thoạt nhin ngay Rôbinxơn(1) là kiến trúc sư và những chú Thứ
Sáu(2) là công nhân xây dựng. dưới một cái chòi, một người đàn ông rậm
râu, đang phân loại giẻ rách và bỏ vào mấy cái thùng để chung quanh ông
ta.
----
Ghi chú: (1), (2) Rôbinxơn và Thứ Sáu là những nhân vật trong truyện Rôbinxơn.
----
- Đừng giẫm chết chó của ta! Ông ta hét. Hãy đến đây cô bé!
Perin làm theo lời chỉ bảo.
- Thưa ông, có phải ông là chủ bãi Guylô không?
- Người ta bảo thế đấy!
Perin nói ngắn gọn em cần gì. Trong lúc đó, để khỏi lãng phí thời
gian, ông ta vừa tự rót một cốc rượu vang đỏ, từ trong chai để gần đó,
và nốc cạn một hơi.
- Ừ, có thể được! Phải trả tiền trước, ông ta nói, trong lúc nhìn cô bé.
- Thưa ông, bao nhiêu?
- Mỗi tuần, chiếc xe bốn mươi hai xu, con lừa hai mốt xu.
- Sao đắt vậy, thưa ông?
- Đó là giá của tôi.
- Giá mùa hè?
- Giá mùa hè.
- Thưa ông, con lừa sẽ được ăn cỏ gai chứ ạ?
- Cả cỏ nữa, nếu có bộ răng cứng.
- Thưa ông, chúng cháu không thể trả trọn tuần vì chỉ ở đây vài hôm.
Chúng cháu ghé Paris để đi Amiêng cho nên chúng cháu muốn nghỉ ngơi.
- Như thế cũng được! Mỗi ngày phải trả sáu xu cho cỗ xe, ba xu cho lừa.
Perin lần trong túi váy, lấy ra từng xu, đủ chín xu.
- Thưa ông, đây là tiền ngày đầu.
- Cô nói với bố mẹ cô vào đi! Bao nhiêu người. Nếu là một đoàn thì mỗi người phải trả thêm hai xu.
- Chỉ hai mẹ con cháu.
- Được rồi! Tại sao mẹ cô lại không đến gặp tôi?
- Thưa ông, mẹ cháu bị ốm đang nằm trong xe.
- Hừ, ốm! Đây không phải là một bệnh viện đâu nhé!
Perin sợ người ta không chịu nhận người ốm.
- Mẹ cháu chỉ mệt. Ông hiểu cho, chúng cháu đi đường từ nơi quá xa!
- Tôi chẳng bao giở hỏi người ta từ đâu đến. rồi ông đưa cánh tay chỉ một góc của đám đất.
- Cô hãy đem xe để vào chỗ đó, rồi cột con lừa lại. Nếu nó giẫm bẹp một con chó của tôi, cô sẽ phải trả một trăm xu.
Perin sắp đi, ông ta còn gọi lại:
- Này, cô bé, uống một cốc vang!
- Xin cảm ơn ông, cháu không biết uống rượu ạ!
- Thế thì lão uống thay cô!
Lão đổ vào họng cốc rượu mình vừa rót, rồi lại tiếp tục cái công
việc “phân loại” giẻ rách. Perin đưa chiếc xe vào chỗ quy định. Tuy em
cố tránh hết sức, xe vẫn bị xóc. Em vội leo lên xe.
- Mẹ ơi, cuối cùng chúng ta cũng đã đến!
- Khỏi phải lăn ỳ ầm, khỏi phải xóc nữa! Biết bao kilômét chúng ta đã đi qua! Trời ơi! Quả đất lớn thật!
- Mẹ ơi, bây giờ chúng ta được nghỉ ngơi. Con chuẩn bị nấu cơm nhé! Mẹ muốn ăn gì?
- Khoan đã! Con hãy mở Palica ra. Tội nghiệp con lừa! Chắc là nó mệt lắm! Con cho nó ăn uống, săn sóc nó.
- Mẹ ơi, ở đây có nhiều cỏ gai! Lại có một cái giếng nữa. Con sẽ trở về ngay!
Thật thế, Perin không dám la cà. Em trở về, tìm trong cỗ xe, soạn ra
cái lò, mấy hòn than, một chiếc xoong cũ. Em lấy đóm nhen lửa, quỳ
xuống thổi cật lực.
Lửa đã bén, em leo lên xe:
- Mẹ ơi, có phải mẹ muốn ăn cơm không?
- Mẹ chẳng thấy đói!
- Mẹ có thèm ăn không? Con sẽ đi lùng mua thứ mẹ thích, mẹ nhé!
- Mẹ muốn ăn cơm!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Perin bỏ một nắm gạo vào xoong đã có ít nước. Khi cơm sôi, em lấy
đôi đũa trắng làm bằng cành cây đã bóc vỏ, đảo cơm. Em chỉ rời bếp lửa
để đi thăm Palica, nói với nó vài lời âu yếm. Thật ra, chuyện ấy bây
giờ không cần thiết! Palica đang ăn cỏ gai. Nó dựng đứng đôi tai, tỏ vẻ
hài lòng.
Cơm vừa chín tới, nghĩa là hạt gạo vừa nở, chứ không
nát như cháo. Như các chị nhà bếp thành phố Paris thường đón khách,
Perin đơm cơm vào trong một cái bát hình tháp có ngọn, rồi đặt bát cơm
vào trong cỗ xe.
Em đã lấy một bình nước để bên giường bà mẹ,
hai cốc, hai đĩa, hai nĩa. Em đặt bát cơm, bên cạnh nồi, ngồi trên sàn,
gấp hai chân lại, kéo váy phủ lên. Perin nói như một em bé gái chơi búp
bê:
- Bây giờ mẹ con ta ăm bữa cơm xoàng! Con sẽ phục vụ mẹ, mẹ nhé?
Tuy Perin đã lấy giọng vui vẻ, nhưng em cũng không khỏi lo ngại nhìn
mẹ. Bà đang nằm trên nệm, trùm chiếc khăn len, trước kia có lẽ là một
thứ hàng có giá trị nhưng bây giờ chỉ là một tấm giẻ rách cũ kỹ, xấu
xí, bạc màu.
- Chắc con đói lắm? Bà mẹ hỏi.
- Có lẽ thế, con đói đã lâu rồi.
- Tại sao con không ăn một mẩu bánh?
- Con đã ăn hai mẩu rồi chứ! Nhưng con vẫn còn đói lắm! Mẹ sẽ thấy,
nếu nhìn người ta ăn mà thèm ăn, thì cái đĩa này bé quá đấy!
Bà mẹ lấy nĩa xúc cơm, đưa lên miệng. Bà lật qua, lật lại cái nĩa rất lâu, mà không nuốt được miếng cơm!
- Mẹ thấy khó nuốt quá!
Thấy con gái nhìn mình, bà nói:
- Hình như không ổn!
- Mẹ phải cố gắng đi chứ! Miếng thứ hai sẽ trôi nhanh và miếng thứ ba còn nhanh hơn nữa!
Nhưng bà mẹ không cố gắng được đến thế! Sau miếng thứ hai, bà để nĩa trên đĩa cơm.
- Mẹ cảm thấy nuốt không trôi! Tốt hơn là đừng cố gắng.
- Ối! Mẹ ơi!
- Con đừng lo, con thân yêu của mẹ, không hề gì đâu con ạ! Người ta
không cần ăn mà vẫn sống khi người ta không phải làm việc. Được nghĩ
ngơi, rồi mẹ sẽ thèm ăn cho mà xem!
Bà mẹ tháo chiếc khăn
vuông và nằm dài trên nệm thở hổn hển. Tuy rất mệt, bà cũng không quên
nghĩ đến con gái. Khi thấy mắt Perin đẫm lệ bà cố gắng làm cho em vui.
- Cơm con nấu ngon lắm! Ăn đi, con! Con phải làm việc thì cần phải
có sức chứ! Con phải khỏe mạnh để còn chăm sóc mẹ. Ăn đi, con thân
yêu! Hãy ăn đi!
- Mẹ ơi, con ăn đây! Mẹ thấy chứ, con đang ăn!
Thật ra Perin phải cố gắng để nuốt, nhưng dần dần nhờ những lời dịu
dàng của bà mẹ, cuống họng của em hình như mở to ra và bắt đầu ăn thật
sự. Bát cơm cơm hết nhanh, trong lúc bà mẹ nhìn con gái với nụ cười
thắm thiết và có phần kém vui.
- Con thấy đó, cần phải cố gắng chứ!
- Mẹ ơi, mẹ cho phép con nói.
- Con cứ nói đi!
- Những điều mẹ nói với con cũng là những lời mà con muốn thưa với mẹ.
- Mẹ ư? Mẹ đang ốm mà!
- Bởi thế, nếu mẹ đồng ý, con sẽ đi mời một ông thầy thuốc. Chúng ta đang ở Paris, nơi có nhiều thầy thuốc giỏi.
- Những ông thấy thuốc giỏi không chịu mất công không! Người ta phải trả tiền chứ?
- Chúng ta sẽ trả tiền cho ông ấy!
- Lấy đâu ra tiền?
- Với số tiền của chúng ta. Mẹ còn bảy phờlôranh mà ở đây chúng ta
có thể đổi được. Con còn mười bảy xu. Mẹ xem lại chiếc áo của mẹ.
Chiếc áo đen ấy, cũng xơ xác như chiếc váy của Perin nhưng ít bụi
bặm vì đã được đập, chải và để trên chiếc nệm, thay chăn. Bà mẹ lần
trong túi áo tìm thấy có bảy phờlôranh nước Áo.
- Tất cả được bao nhiêu hở mẹ? Perin hỏi, con không biết tiền Pháp trị giá thế nào?
- Mẹ cũng chẳng hiểu gì hơn con!
Hai mẹ con ước tính đồng phờlôranh là hai phơrăng thì họ có tất cả chín phơrăng, chín mươi lăm xăngtim. Perin lại nói:
- Mẹ thấy đấy! Chúng ta thừa tiền để mời thấy thuốc.
- Thầy thuốc không chữa bệnh cho mẹ bằng nước bọt! Ông ta sẽ kê đơn mua thuốc. Lấy tiền đâu mà trả?
- Con có ý kiến! Mẹ biết đấy, nhưng lúc con đi bên cạnh Palica,
không phải lúc nào con cũng để hết thời gian để nói chuyện với nó, tuy
con vật rất thích điều đó. Con còn nghĩ đến mẹ, đến chúng ta, nhất là
mẹ. Từ dạo mẹ ốm con nghĩ đến chuyến đi dài ngày của chúng ta, chuyến
về Marôcua. Mẹ thử nghĩ xem, chẳng lẽ chúng ta lại ra mắt thiên hạ ở
quê cha con, trên cái cỗ xe đã từng làm trò cười trên đường đi? Chắc
chắn là chúng ta sẽ không được đón tiếp nồng nhiệt!
- Đúng thế. Dù với những người họ hàng ít tự ái thì mẹ con ta trở về với cỗ xe ấy cũng sẽ làm nhục họ!
- Thế thì tốt hơn là đừng giữ nó.
Chúng ta không cần giữ cỗ xe nữa, chúng ta có thể bán đi. Với lại,
bây giờ để xe làm gì? Từ dạo mẹ ốm, chẳng có ai chịu để cho con chụp
hình. Dù con tìm được khách mạnh dạn, dám tin con thì mình lại không có
thuốc, vả lại, với số tiền chúng ta hiện có, chúng ta không thể xài ba
phờrăng để mua giấy ảnh, hai phờrăng để mua thuốc rửa ảnh, hai phờrăng
để mua một tá kính! Phải bán thôi!
- Bán bao nhiêu.
- Dẫu sao chúng ta cũng có thể bán được ít nhiều. Máy ảnh thì ống kính còn tốt, rồi còn cái nệm nữa…
- Bán hết ư?
- Chuyện ấy làm mẹ đau lòng sao?
- Đã hơn một năm nay, chúng ta sống trong cỗ xe này! Cha con đã chết
ở đây! Bởi thế, dầu chiếc xe có tồi tàn quá mức đi nữa, ý nghĩ phải rời
nó, cũng làm mẹ xót xa! Chúng ta chỉ còn giữ lại của cha con chừng này
thôi. Không có một vật gì trong đám đồ đạc tồi tàn này lại không mang
những kỹ niệm của người đã khuất!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Bà mẹ nói trong hơi thở hổn hển và dừng lại. Những giọt nước mắt mà
bà không thể ngăn nổi, chảy dài trên khuôn mặt chỉ còn xương bọc da.
- Ôi, mẹ ơi! Perin kêu lên. Xin mẹ tha lỗi cho con! Con trót đã dại dột nói chuyện ấy với mẹ.
- Con thân yêu, con có lỗi gì chứ! Do hoàn cảnh khốn khổ cho nên
chúng ta khó trao đổi vì câu chuyện có thể làm phiền lòng mẹ, hoặc con.
Số mệnh quá khắc nghiệt! Trong tình trạng hiện nay, mẹ không còn đủ sức
để chống đỡ, để suy nhĩ, để mong muốn. Mẹ còn trẻ con hơn con gái của
mẹ nữa đấy! Có phải đáng lẽ mẹ phải nói với con những điều mà con thấy.
Chúng ta không thể đến Marôcua trong cỗ xe và ăn mặc rách rưới: mẹ
chiếc áo này, con chiếc váy ấy. Ta đã nhìn thấy trước như thế, thì phải
cố tìm cách xoay sở để có ít tiền. Mẹ mệt quá, trong đầu óc chỉ có
những ảo tưởng! Mẹ chờ đợi ngày mai nhhư là ngày mai sẽ mang lai cho
chúng ta những sự kỳ diệu! Mẹ sẽ lành bệnh, chúng ta sẽ thu nhập khá
hơn. Đó là ảo ảnh của những người thất vọng chỉ còn sống bằng mộng.
Thật là điên rồ! Con đã nói phải: ngày mai, mẹ cũng chưa hết bệnh!
Chúng ta cũng không thu được món lớn, món bé nào cả! Phải bán cổ xe và
những đồ đạc trong xe! Ấy thế mà chưa hết đâu, chúng ta còn phải quyết
định việc bán…
Một giây lát chần chừ và im lặng nặng nề.
- Palica! Perin nói.
- Con đã nghĩ đến điều ấy ư?
- Vâng, con đã nghĩ đến điều ấy, nhưng con không dám nói. Từ lúc con
có ý nghĩ một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải bán Palica, thì cái ý nghĩ
ấy cứ dằn vặt con. Con không còn dám nhìn nó nữa! Con sợ nó đoán biết
chúng ta sắp xa nó, không dẫn nó về Marôcu như đã dự định, để nó được
sung sướng, sau những ngày mệt nhọc.
- Chúng ta nào biết người
ta sẽ đón tiếp mình như thế nào ở Marôcua! Chúng ta phải đến trình diện
bằng cách nào đó, để người ta phải mở cửa, đón chúng ta.
- Có
thể nào lại đến thế, hở mẹ? Chẳng lẽ vong hồn linh thiêng của cha con
không che chở cho mẹ con ta sao? Bố tốt như thế mà người ta không nhớ
bố sao? Chẳng lẽ cứ giận mãi những người đã chết.
- Mẹ đang
nhắc lại những ý kiến của cha mà chúng ta phải tuân theo. Chúng ta sẽ
bán cỗ xe và con lừa. Với số tiền nhận được, chúng ta sẽ mời một ông
thấy thuốc. Mẹ chỉ cầu mong ông ấy chữa cho mẹ khỏe mạnh trong mấy hôm.
Chúng ta sẽ mua một cái áo dễ coi cho con, và cái cho mẹ. Chúng ta sẽ
đi xe lửa đến Marôcua. Nếu không đủ tiền, chúng ta sẽ đi xe lửa một
đoạn còn thì đi bộ.
- Mẹ ơi! Palica là một con lừa đẹp! Cậu bé
nói chuyện với con ở cổng gác cho con biết thế! Cậu ta ở trong rạp xiếc
và rất hiểu biết về súc vật. Vì thấy con lừa đẹp, cầu ta đến nói chuyện
với con.
- Chúng ta không hiểu giá trị những con lừa ở Paris
và càng mù tịt về giá trị con lừa phương Đông ở đây. Chúng ta hãy chờ
xem! Công việc như thế là đã ngã ngũ! Thôi đừng nhắc lạ nữa! Đó là một
đề tài quá buồn, với lại mẹ đang mệt!
Thật vậy, bà mẹ như là kiệt sức. Bà phải dừng lại nhiều lần, trước khi nói hết những điều muốn nói.
- Mẹ có cần ngủ không mẹ?
- Mẹ cần được nghỉ ngơi sau khi đã quyết định. Cần sự yên tĩnh và hy vọng ở ngày mai!
- Thế thì con để mẹ nằm nghỉ. Còn hai giờ nữa mới tối. Con tranh thủ
giặt quần áo. Ngày mai, mặc chiếc sơ mi mới giặt, mẹ sẽ thấy dễ chịu.
- Con đừng làm mà mệt!
- Mẹ biết đấy, con có bao giờ mệt đâu.
Perin ôm hôn mẹ rồi đi lại cỗ xe. Nhanh nhẹn nhẹ nhàng, em lấy một
gói quần áo cất trong chiếc hòm nhỏ. Em bỏ vào trong chậu với tay tìm
trên tấm ván miếng xà phòng nhỏ đã dùng nhiều lần, rồi mang các thứ ra
khỏi xe. Khi cơm chín, Perin đã đổ nước vào xoong, bắc lên bếp, nên bây
giờ có sẵn nước nóng để ngâm quần áo, em cởi áo vét, quỳ trên cỏ, xát
xà phòng rồi vò. Thật ra, em chỉ phải giặt hai sơmi, hai đôi tất, ba
mùi xoa, nên không cần đến hai tiếng để làm việc ấy. Em phơi áo quần
trên sợi dây buộc từ hàng rào vào cỗ xe.
Trong lúc ấy, Palica
cột ở gần đấy, đã nhiều lần nhìn cô chủ, như để trông chừng cô ta, chỉ
thế thôi! Thấy Perin đã giặt xong, nó vươn cổ về phía cô chủ kêu lên
năm, sáu tiếng thảm thiết.
- Mày nghĩ là tao quên mày ư? Perin nói.
Em đến bên nó, đem buộc nó chỗ khác và múc một bình nước cho nó. Cái
bình đã được cọ sạch. Con lừa này ăn dễ dàng các thức ăn người ta cho
nó, hoặc nó tự kiếm được. Về khoản nước uống, trái lại, nó rất khó
tính. Nó chỉ uống nước sạch, đựng trong bình đã cọ rửa kỹ. Nó khoái
nhất là được uống rượu ngon. Perin đã làm xong mọi việc. Đáng lẽ em đi
về cỗ xe thì em lấy tay vuốt ve nó, nói với nó những lời âu yến như bà
nhũ mẫu nói với đứa bé. Con lừa sắp sà vào đám cỏ mới, dừng lại không
ăn, để tựa đầu trên vai cô chủ nhỏ mong được âu yếm. Thỉnh thoảng, nó
cụp đôi tai dài về phía cô chủ, rồi vểnh lên, run run, tỏ rõ niềm hạnh
phúc.
Sự im lặng trùm lên khu bãi, lúc này đã đóng cổng cũng
như ngoài các nẻo đường vắng vẻ của khu phố. Người ta không còn nghe gì
ở xa, thật xa. Không có tiếng gì rõ rệt, chỉ có tiếng gầm sâu thẳm,
mạnh mẽ, bí ẩn như là tiếng của biển cả. Hơi thở, cuộc sống của Paris
vẫn tiếp diễn chuyên cần và sôi nổi mặc dù đêm xuống. Thế rồi, trong
nỗi buồn của chiều ta, Perin nhớ lại câu chuyện vừa trao đổi với mẹ,
tim em như bị bóp nghẹt. Em nghiêng đầu bên con lừa, mặc cho nước mắt
tuôn trào, nhưng giọt nước mắt cầm giữ từ lâu, đã làm em ngột ngạt.
Trong lúc đó, Palica liếm bàn tay cô chủ.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Đêm ấy, người bệnh mệt, Perin lấy chiếc khăn vuông, cuộn tròn làm
gối rồi để y nguyên cả áo quần, nằm bên cạnh mẹ. Em phải thức dậy nhiều
lần để lấy nước cho mẹ. Em ra giếng múc nước mát, đem về. Bà mẹ cảm
thấy nóng nực, khó thở. Trái lại, khi bình minh đến, cái giá rét của
Paris làm cho bà rung lên. Perin lại phải lấy chiếc khăn vuông, cái
chăn duy nhất mà mẹ con em còn giữ được, trùm cho mẹ.
Mặc dù
Perin muốn đi tìm thấy thuốc càng sớm càng tốt, nhưng em phải đợi Hạt
Muối thức dậy, để hỏi tên và địa chỉ một thấy thuốc giỏi. Perin còn
biết hỏi ai, nếu không hỏi ở ông ta! Quả vậy, ông ta biết một ông thầy
thuốc nổi tiếng, thường đi thăm bệnh bằng xe ngựa, chứ không cuốc bộ
như những thầy thuốc xoàng. Đó là ông Xăngđriê ở phố Riblét, gần nhà
thờ. Muốn đi đến đó, chỉ cần theo con đườn sắt, đi về phía nhà ga. Khi
nghe nói một thầy thuốc đã lo ngại không đủ tiền để trả. Em rụt rè e
thẹn, lúng túng, không dám nói rõ, chỉ hỏi Hạt Muối loanh quanh. Nhưng
rồi ông ta cũng hiểu và nói:
- Cô phải trả bao nhiêu ư? Ừ, đắt
đấy! Cũng phải bốn mươi xu! Cô nên trả tiền trước, như thế mình mới
buộc ông ấy phải đến.
Perin tìm con đường Piblét khá dễ dàng,
theo lời chỉ dẫn của Hạt Muối. Ông thầy thuốc đang ngủ chưa dậy. Em
phải ngồi đợi trên một cái trụ ở ngoài đường, trước cửa nhà xa, Perin
nhìn thấy người ta đang thắng ngựa. Như thế, em sẽ đón ông trên đường
đi, nộp bốn mươi xu, buộc ông phải đến thăm mẹ em. Em linh cảm, nếu
người ta chỉ mời miệng đi thăm một bệnh nhân ở bãi Guylô, chắc ông ấy
sẽ không đến.
Thời gian sao mà bất tận thế! Em càng hồi hộp vì
còn lo mẹ không yên tâm nếu em về trễ. Nếu ông thầy thuốc không chữa
cho mẹ khỏi bệnh trong chốc lát có lẽ ít nhất, ông cũng làm cho bà bớt
đau đớn. Perin đã từng thấy một ông thầy thuốc bước vào cỗ xe khi cha
em ốm. Dạo ấy, gia đình em đang ở miền núi, trong một xứ sở hoang vu.
Cha lâm bệnh nặng, không kịp đến thành phố để rước một ông thầy thuốc
đàng hoàng. Ông lang họ nhờ, nói đúng hơn là một bác thợ cạo với những
cung cách của thầy phù thủy. Ông ta khác hẳn những thầy thuốc chính
cống ở Paris: thông thái, trị bệnh cứu người, như ông Xăngđriê này, vì
người ta nói ông ấy tài giỏi.
Cửa nhà xe vừa mở thì một cỗ xe
ngựa kiểu cũ, màu vàng, có hai bánh và có mui, thắng một con ngựa béo
kéo cày to, đã đỗ trước ngôi nhà. Ngay lúc ấy, một thầy thuốc xuất
hiện: cao, to béo, mặt đỏ, hàm râu màu tro, với dáng điệu một ông lão ở
thôn quê.
Trước khi ông lên xe, Perin đã đến bên ông và trình bày nguyện vọng.
- Bãi Guylô! Ông ta nói: Ở đó trước có pháo đội.
- Thưa ông, không phải! cháu mời ông đến thăm bệnh mẹ cháu ốm, ốm nặng.
- Mẹ cô làm gì?
- Chúng cháu là thợ ảnh.
Ông thầy thuốc toan bước lên xe. Nhanh nhẹn, Perin đưa đồng bốn mươi xe và nói:
- Thưa ông, chúng cháu có thể trả tiền trước cho ông.
- Thế thì ba phờrăng.
Em bé đưa thêm hai mươi xu. Ông ta nhận tiền bỏ vào túi áo gilê.
- Mười lăm phút nữa, tôi sẽ đến thăm mẹ cô.
Trên đường về, sung sướng được mang tin vui, Perin vừa đi, vừa chạy:
- Mẹ ơi, ông thầy thuốc sẽ chữa cho mẹ lành bệnh! Ông này thật là một ông thầy thuốc!
Nhanh nhẹn, em sửa soạn cho bà mẹ. Em lau mặt, lau hai bàn tay, chải
mái tóc đen và mềm như tơ. Em sắp xếp trong cỗ xe. Việc đó chỉ làm cho
cỗ xe thêm trống trải và như thế càng lộ vẻ tồi tàn hơn!
Hai
mẹ con không phải chờ đợi lâu. Có tiếng xe lăn bánh báo hiệu ông thầy
thuốc đến thăm. Perin vội chạy ra đón. Ông thầy thuốc muốn đi về phía
ngôi nhà. Cô bé chỉ phía cỗ xe và nói:
- Chúng cháu ở trong cỗ xe!
Tuy cỗ xe không phải là nhà, ông thầy thuốc cũng không tỏ vẻ ngạc
nhiên. Ông đã quen với nỗi nghèo khổ của khách hàng. Perin vẫn theo dõi
ông. Em nhận thấy nét mặt ông không vui, khi thấy người bệnh nằm như
dính chặt trên tấm nệm trong cỗ xe trống trải.
- Hãy le lưỡi, đưa tay cho tôi xem mạch!
Những người trả cho thầy thuốc bốn mươi hay một trăm phờrăng mỗi lần
thăm bệnh, không thể nào ý niệm được việc thầy thuốc khám bệnh cho
người nghèo. Chỉ cần không đầy một phút, ông đã chẩn đoán bệnh xong.
- Bà phải vào bệnh viện! Ông ta nói.
Bà mẹ và cô con gái sợ hãi và đau đớn cùng hét lên.
- Em bé! Em hãy để cho tôi ngồi lại với mẹ! Ông thầy thuốc ra lệnh.
Perin chần chừ một lát, nhưng bà mẹ đã ra hiệu. Em vội rời khỏi cỗ xe, nhưng không dám đi xa.
- Có phải bệnh tôi nguy rồi không? Bà mẹ hổn hển nói.
- Có ai nói thế đâu! Bà cần những sự chăm sóc mà ở đây bà không thể có được?
- Ở bệnh viện, con gái tôi có được ở gần tôi không?
- Cô ấy sẽ đến thăm bà vào ngày thứ năm và chủ nhật.
- Mẹ con chúng tôi phải xa nhau ư? Không có tôi, một mình ở Paris,
con bé sẽ ra sao đây? Còn tôi, không có nó, tôi sẽ như thế nào? Nếu tôi
phải chết, hãy cho tôi được nắm bàn tay nó!
- Dẫu sao, người
ta cũng không thể để bà ở trong cỗ xe này được! Cái rét ban đêm sẽ nguy
hiểm cho sức khỏe của bà. Bà phải thuê một gian buồng. Bà có thể làm
thế được chứ?
- Vâng, có thể được! nếu không phải thuê lâu ngày!
- Hạt Muối sẽ cho bà thuê buồng và không lấy đắt đâu. Nhưng cái
buồng không phải là tất cả! Còn phải thuốc men, ăn uống, bồi dưỡng,
những sự chăm sóc… các thứ ấy, bà chỉ nhận được ở bệnh viện.
- Thưa ông, chuyện ấy không thể được! Tôi không thể xa con gái của tôi! Rồi nó sẽ ra sao chứ?
- Tùy ý bà! Đó là chuyện của bà. Tôi đã nói với bà điều tôi cần nói.
- Này, cô bé! Ông gọi.
Ông rút cuốn sổ tay trong túi áo, lấy bút chì viết mấy dòng trên tờ giấy trắng và dặn:
- Cô đưa cái này cho ông dược sĩ ở gần nhà thờ, đừng đưa cho người
khác. Cô cho mẹ cô uống gói thuốc số 1. Cách một giờ, cô cho uống thứ
thuốc nước số 2, rượu canhkyna thì cô cho uống vào bữa ăn. Phải cho mẹ
cô ăn, muốn ăn gì cũng được, nhất là trứng. Chiều tôi sẽ trở lại.
Perin muốn tiễn ông thầy thuốc, để hỏi thêm:
- Thưa ông, bệnh mẹ cháu nặng lắm phải không?
- Cô nên cố gắng khuyên bà vào bệnh viện.
- Thế ông không chữa cho mẹ cháu khỏi bệnh được sao?
- Có chứ! Tôi cũng rất mong thế! Nhưng tôi không thể nào cho mẹ cô
những thứ mà bà tìm được ở bệnh viện. Thật là điên rồ mới không đến đó!
Chỉ vì không muốn xa cô, nên bà từ chối. Cô là một cô gái cẩn thận,
hoạt bát, cô sẽ không việc gì đâu mà ngại!
Ông ta sải những bước
dài và đã đến cỗ xe, Perin muốn giữ ông ta lại, nghe ông nói, nhưng ông
đã lên xe và đi khuất. Thế rồi em trở về cỗ xe.
- Ông thầy thuốc nói gì thế? Bà mẹ hỏi.
- Ông nói sẽ chữa cho mẹ khỏi bệnh.
- Con hãy đến ngay ông dược sĩ ở gần. Khi về, mua cho mẹ hai quả trứng. Con cầm hết tiền đi!
Nhưng tất cả số tiền ấy cũng chưa đủ!
Khi ông dược sĩ đọc đơn thuốc, ông ta nhìn Perin với cái nhìn khinh bỉ và nói:
- Cô có đủ tiền để trả không?
Em xòe bàn tay.
- Phải bảy phở răng năm mươi. Ông dược sĩ nói. Sau khi đã làm con tính.
Perin đếm hết số tiền đang cầm trong tay. Tất cả có sáu phờ răng tăm
mươi lăm xăngtim, ấy là đã tính đồng phờlôranh Áo đổi được hai phờ
răng. Còn thiếu mười ba xu.
- Cháu chỉ có sáu phờ răng tăm mươi lăm, có một đồng phờlôranh Áo. Em nói. Ông có nhận đồn phờlôranh không ạ?
- Ấy không!
Làm thế nào bây giờ? Perin thất vọng, đứng sững giữa hiệu thuốc. Cuối cùng, em nói:
- Nếu ông vui lòng nhận đồng phờlôranh giúp cháu thì cháu chỉ thiếu mười ba xu. Cháu sẽ đem trả ông ngay.
Nhưng ông dược sĩ không thích rắc rối. Ông không cho Perin mắc nợ, cũng không nhận đồng phơlôranh. Ông nói:
- Rượu canhkina thì chưa cần gấp, cô sẽ đến lấy sau. Tôi chuẩn bị
cho cô ngay tức khắc những gói thuốc bột và chai thuốc nước. Cả hai thứ
chỉ hết ba phờ răng năm mươi.
Với số tiền còn lại, Perin mua
trứng và một ổ bánh thứ hảo hạng. Em nghĩ bụng, mẹ em nhìn thấy ổ bánh,
chắc phải thèm! Em trở lại bãi Guylô vừa đi, vừa chạy, như lần trước.
Em nói với mẹ:
- Trứng còn tươi, con đã soi rồi! Mẹ nhìn này, người ta nướng ổ bánh khéo quá! Mẹ ăn chứ, phải không mẹ?
- Ừ, con gái yêu của mẹ.
Hai mẹ con chứa chan hy vọng. Perin tin tưởng tuyệt đối. Ông thầy thuốc
đã hứa sẽ chữa cho mẹ em lành bệnh! Ông ta sẽ làm cái việc kỳ diệu ấy!
Ông ấy lừa dối em làm gì kia chứ? Khi người ta hỏi thẳng ông thầy thuốc
thì ông ấy phải nói sự thật mà thôi.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Hy vọng quả là một thứ rượu khai vị tuyệt vời. Đã hai ngày nay,
người bệnh không ăn uống gì, nay nhấm nháp được quả trứng và nửa ổ
bánh. Perin nói:
- Mẹ thấy chưa?
- Ừ, chắc sẽ tốt thôi!
Dẫu sao, thần kinh cuả bà cũng bớt căng thẳng. Bà cảm thấy yên tĩnh một
chút. Thừa dịp ấy Perin đi tìm Hạt Muối để hỏi ý kiến về chuyện bán cỗ
xe và con lừa. Chuyện bán cỗ xe thì chẳng khó khăn gì gì Hạt Muối có
thể mua. Ông ta mua đủ thứ: đồ gỗ, áo quần, đồ dùng, nhạc cụ, vải vóc,
vật liệu xây dựng, hàng mới cũng như hàng cũ. Nhưng còn Palica lại là
chuyên khác! Ông không mua súc vật, trừ khoản chó con. Theo ông nói,
phải đợi đến thứ tư, có phiên chợ Ngựa, mới bán được con lừa.
Còn
lâu mới đến thứ tư. Bồng bột hy vọng, Perin tưởng tượng trước hôm ấy,
bà mẹ sẽ khỏe mạnh để đi Marôcua. Phải chờ đợi cũng có cái hay đấy chứ?
Với số tiền bán cỗ xe, mẹ con em có thể mua sắm quần áo, đi đường bằng
tàu hỏa? Với lại, còn có khả năng tốt hơn. Nếu Hạt Muối mua cỗ xe được
giá, thì không phải bán Palica. Palica sẽ ở lại bãi Guylô. Mẹ con em
đến Marôcua trước rồi sẽ đưa nó về sau. Hạnh phúc biết bao nếu Perin
không phải xa người bạn yêu dấu ấy! Con lừa sẽ được sung sướng. Nó được
ăn uống, đầy đủ, ở trong một cái chuồng đẹp. Cả ngày nó đi dạo với hai
mẹ con cô chủ của nó, giữa những đám cỏ màu mỡ. trong vài giây, những
áo ảnh choán cả tâm hồn của em bé đã bị sụp đổ. Sau khi xem xét kỹ, Hạt
Muối chỉ trả có mười lăm phờ răng cả cỗ xe và các đồ đạc chứa trong đó,
khác hẳn với số tiền mà Perin tưởng tượng.
- Mười lăm phờ răng thôi ư?
- Đó là tôi giúp cô đấy! Cô nghĩ xem, tôi làm gì với những thứ của nợ ấy?
Ông ta lấy cái móc thay thế cánh tay, gõ lên bánh xe, thành xe, rồi nhúng vai tỏ vẻ thương hại và khinh bỉ.
Perin đã tốn bao nhiêu nước bọt để ông ta trả thêm hai phờ răng năm
mươi và hứa cho hai mẹ con được ở trên xe cho đến lúc đi khỏi nơi này.
Em nghĩ dù sao bà mẹ ở trong xe còn hơn là ở trong nhà.
Khi Hạt
Muối đưa Perin đi thăm các gian buồng mà ông ta có thể cho hai mẹ con
thuê, em cảm thấy cỗ xe ngựa còn quý giá hơn nhiều. Tuy ông ta giới
thiệu rất tự hào về các gian buồng, sự tự hào ấy cũng chẳng có gì đáng
kể so với sự khinh bỉ của ông đối với cỗ xe của mẹ con em. Gian buồng
thật là tồi tàn, hôi hám! Chẳng qua, vì hai mẹ con ở trong tình trạng
nguy nan nên phải ở trong cái nhà này. Nói cho đúng, nhà ấy có một cái
mái và những bức tường không phải làm bằng vải, nhưng cũng chẳng hơn gì
cỗ xe. Chung quanh nó. Hạt Muối chất đống những hàng hóa có thể chịu
được những thay đổi của thời tiết: chai vỡ, xương, đồ sắt. phía trong
hàng hiên và những gian phòng âm u mà mắt không nhìn thấy rõ, chứa
những gì cần được bảo quản: giấy cũ, giẻ rách, nút chai, vỏ bánh mì,
giày cũ và vô số những thứ phế liệu, phế phẩm làm thành rác rưởi của
thành phố Paris. Từ những đống linh tinh ấy, bốc lên mùi hôi nồng nặc
khiến người ta buồn nôn.
Perin đang do dự tự hỏi bà mẹ liệu có khỏi nghẹt thở vì những mùi ấy không thì Hạt Muối giục:
- Nhanh lên, cô bé! Xe rác sắp vào rồi! Tôi phải có mặt để nhận và “phân loại” những thứ họ mang đến!
- Ông thấy thuốc có biết những gian buồng này không? – Em hỏi.
- Chắc chắn ông ấy biết! Ông đã đến đây thăm bệnh nhiều lần, khi ông chữa bệnh cho bà Hầu tước!
Cái tiếng đó làm cho em hết do dự. Ông thầy thuốc đã biết những gian
buồng này. Ông ta khuyên Perin thuê một buồng thì chắc là bà mẹ ở đây
được. Với lại, một bà Hầu tước ở một buồng, thì mẹ em cũng có thể ở một
buồng chứ?
- Mỗi ngày cô phải trả tám xu. Hạt Muối nói, thêm ba xu cho con lừa và sau xu cho cỗ xe.
- Ông đã mua xe rồi mà?
- Đúng thế, nhưng vì cô dùng xe thì cô phải trả tiền.
Perin không còn biết trả lời thế nào được nữa!
Đây không phải là lần đầu tiên, Perin bị người ta lột da, cắt cổ! Trên
con đường dài đi về đây, đã nhiều lần em phải chịu đựng, còn nặng nề
hơn nữa! Em tin đó là cái luật của thiên nhiên, của những người giàu có
đối với những người nghèo khổ!
Perin bỏ hết một buổi chiều để
dọn buồng. Em lau sàn nhà, cọ tường, trần nhà, cửa sổ. Từ ngày xây dựng
ngôi nhà này, đây là lần đầu tiên gian buồng được dọn dẹp cẩn thận:
Phải đi lại nhiều lần ra giếng để xách nước, em để ý và thấy trong khu
vườn không phải chỉ có cỏ và cỏ gai. Ngọn gió, hay đàn chim mang có hạt
cây từ những khu vườn lân cận đến đây. Mấy bác láng giềng ném qua hàng
rào những cây hoa mà họ không thích nữa! Một vài hạt, vài cây ấy, rơi
xuống đám đất thích hợp, đã nẩy mầm, bén rễ và bây giờ vẫn nở hoa. Có
lẽ hoa ở đây không giống hoa ở khu vườn luôn luôn được săn sóc, tưới
nước, bón phân. Nhưng dầu hoa dại, hoa vân nồng hương, tươi sắc và
không kém vẻ đẹp.
Thấy vậy, Perin có ý nghĩ hái mấy đóa hoa đinh
tử màu đỏ, màu tím, vài hoa cẩm chướng về kết thành bó, để tô điểm cho
gian buồng của hai mẹ con, át đi mùi khó chịu. Hình như hoa ấy vô chủ,
bởi vì Palica khi thích vẫn nhai luôn. Tuy vậy, Perin cũng không
dám hái hoa trước khi hỏi ý kiến của Hạt Muối.
- Có phải cháu hái hoa để bán không?
- Thưa bác, cháu hái hoa để trang trí gian buồng.
- Thế thì cháu cứ tự nhiên! Nếu hái hoa để bán thì bác phải bán cho
cháu trước đã! Nếu cháu dùng thì đừng ngại! Cháu thích mùi hương các
loại hoa, bác thích hương thơm của các loại rượu và bác chỉ ngửi thấy
mùi rượu mà thôi.
Perin tìm được dễ dàng những chiếc lọ sứt, mẻ
để cắm hoa, trong đám những lọ, chai vỡ. Trong chốc lát, mùi hoa đinh
tử, hoa cẩm chướng, hái dưới nắng át hẳn mùi hôi, màu sắc tươi mát của
các bông hoa soi sáng những bức tường bẩn thỉu. Trong lúc dọn lẹp,
trang trí gian buồng. Perin đã là quen với những người ở buồng bên
cạnh. Một bà có mái tóc điểm sương, đội cái mũ trùm đầu có rubăng màu
cờ tam tài của nước Pháp. Một ông cụ cao, lưng còng, mang một tạp dề
dài và rộng, tưởng như là y phục duy nhất của cụ. Ông cụ cho em hay bà
già có rubăng màu cờ tam tài là một ca sĩ đường phố - đây chắc là bà
Hầu tước mà Hạt Muối đã nhắc đến – ngày nào cũng thế, bà rời bãi Guylô,
tay cầm cái ô màu đỏ và một chiếc gậy lớn. Bà cắm gậy ở ngã tư đườn phố
hay đầu cầu. Bà che ô lên để khỏi nắng. Bà hát và bán bản liệt kê những
bài hát của bà. Bà Hầu tước thì cho biết ông cụ mang tạp dề là người
lọc giày dép cũ chọn những gì còn dùng được, từ sáng đến chiều, ông cụ
im lặng làm việc như một con cá. Vì thế, người ta đặt cho ông cụ cái
tên Bố Cá Chép và người ta chỉ biết ông cụ với cái tên ấy. Tuy ông cụ
không nói, nhưng cái búa của ông cụ cũng làm điếc tai, nhức óc người
ta. Đến lúc mặt trời lặn, Perin đã dọn dẹp xong và đưa mẹ về buồng.
nhìn thấy hoa, bà mẹ ngạc nhiên một cách thú vị.
- Con thân yêu, con thương mẹ quá!
- Nhưng chính là con thương con đấy chứ! Thấy mẹ vui, con sung sướng quá!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Đến tối, Perin phải đem mấy lọ hoa ra khỏi gian buồng. Khi ấy, người ta
lại ngửi cái mùi của gian nhà cũ kỹ, nhưng người bệnh không dám phàn
nàn! Mà phàn nàn thì làm gì kia chứ khi bà không thể rời bãi Guylô mà
đi nơi khác – Bà lên cơn sốt, những mộng mị và xúc động làm bà mệt, nên
giấc ngủ chập chờn.
Sáng hôm sau, ông thầy thuốc đến thăm, thấy
bà mệt hơn hôm trước, phải thay đơn, Perin lại phải đến gặp ông dược
sĩ. Lần này, ông đòi năm phờ răng. Em không kêu ca gì và mạnh dạn trả
tiền. Nhưng khi trở về, em không thở được! Nếu những chi phí cứ như thế
này mãi thì làm thế nào kéo cho đến thứ tư để được cầm trong tay số
tiến bán con Palica tội nghiệp? Nếu ngày mai, phải trả năm phờ răng hay
nhiều hơn thì em biết moi ở đâu ra số tiền ấy? Cái thời kì Perin đi
đường núi cùng với bố mẹ, cũng có nhiều lần bị đói. Khi gia đình em rời
Hy Lạp để về Pháp cũng nhiều lần không có bánh để ăn. Nhưng chưa lúc
nào nguy như hiện nay! Ở trong núi, tuy đói họ vẫn hy vọng tìm được ít
rau, củ, một con thú rừng… Nhiều khi ước mơ trở thành hiện thực, họ có
một bữa ăn ngon. Về đến châu Âu, thiếu bánh, họ có thể gặp những bác
nông dân Hy Lạp Tyrôn để chụp ảnh và nhận tiền của họ. Còn ở Paris thì
những người không sẵn tiền trong túi, không thể chờ mong gì cả! Mẹ con
em thì túi đã cạn rồi, biết làm thế nào đây? Cái đáng sợ là chính em
phải trả lời câu hỏi ấy! Em còn biết gì và làm gì được? Cái đáng kinh
hãi là em phải nhận hết trách nhiệm bởi vì bệnh tật đã làm cho bà mẹ
không thể sáng suốt mà xoay xở. Và bây giờ, Perin cảm thấy em đang ở
địa vị người mẹ tuy chỉ là một đứa trẻ.
Nếu tình thế tốt hơn một
chút, Perin sẽ lo động viên và có thêm sức mạnh. Nhưng nào đâu có được
thế! Tuy bà mẹ chẳng bao giờ phàn nàn, trái lại, lúc nào bà cũng lặp
lại câu nói quen thuộc: “Rồi sẽ tốt thôi!”. Nhưng thật ra, Perin thấy:
Rồi mai sẽ không tốt! Bà mẹ mất ngủ, sốt và lười ăn, khó thở… Những
triệu chứng ấy có vẻ tăng lên, nếu em không lầm!
Sáng thứ ba, đến
buổi thăm bệnh của thầy thuốc thì cái điều Perin lo ngại về đơn thuốc
đã xảy ra! Sau khi kiểm tra người bệnh, bác sĩ Xăngđriê lấy trong túi
quyển sổ tay, cái quyển sổ tay dễ sợ, đã từng làm cho Perin bối rối.
Ông chuẩn bị viết. Khi ông vừa đặt cây bút chì lên giấy. Perin đã có đủ
can đảm để ngăn ông:
- Thưa ông, nếu những thứ thuốc mà ông sắp kê không cùng mức quan trọng như nhau thì xin ông chỉ kê những thứ cần gấp.
- Cô muốn nói gì? Ông bác sĩ phật ý, hỏi lại. Perin run lên, tuy thế, em cũng dám nói tường tận:
- Thưa ông, cháu muốn nói, chúng cháu không có nhiều tiền hôm nay. Ngày mai, chúng cháu mới nhận được tiền, khi ấy…
Ông liếc nhìn Perin. Sau khi đưa mắt chỗ này chỗ kia, như là lần đầu
trông thấy sự nghèo khổ của hai mẹ con em; Ông cất quyển sổ tay vào
trong túi áo.
- Ngày mai, tôi sẽ thay đơn. Chẳng có gì phải vội. Hôm nay vẫn dùng cái đơn thuốc hôm qua cũng được!
“Không có gì phải vôi!” Đó là câu nói mà Perin nhớ và lập lại. Nếu
“Không có gì phải vội” nghĩa là bà mẹ không mệt như em lo ngại! Em vẫn
có thể hy vọng và đợi chờ.
Thứ tư là ngày Perin chờ đợi! Em vừa
mong ngày ấy đến lại vừa đau lòng khi nghĩ đến chuyện phải xa Palica,
nhưng hai mẹ con chỉ trông chờ vào số tiền bán lừa để sống. Vì thế, mỗi
lần có thể rời bà mẹ là em chạy vội ra chỗ rào kín để nói chuyện với
chú bạn ấy. Bây giờ nó không phải làm việc, không phải khó nhọc và đã
tìm thấy một kho thức ăn dồi dào. Sau những ngày đói khát, chưa bao giờ
nó vui như thế! Vừa nhìn thấy Perin đi lại phía nó, nó kêu lên bốn, năm
tiếng có thể làm rung động những cửa kính mấy túp lều tồi tàn trong
bãi Guylô. Từ cuộn dây thừng buộc nó, no tung vài cú đá hậu, cho đến
khi em đến bên nó. Nhưng khi Perin để tay lên lưng nó thì nó dịu ngay.
Nó vươn cái cổ, rồi ngả đầu trên vai em không nhúc nhích. Người và vật
cứ đứng như thế. Perin vuốt ve con lừa; Con lừa thì vẫy dôi tai, nheo
đôi mắt, với những động tác có nhịp điệu. Những cái đó cũng như là
những lời tâm sự của nó. Perin thì thầm:
- Nếu mày biết!
Nhưng nó nào có biết gì và cũng không đoán được! Nó rất hài lòng về
cuộc sống hiện tại; Được nghỉ ngơi, ăn uống no đủ, được cô chủ vuốt ve.
Nó tự cho nó là con lừa sung sướng nhất trên đời. Với lại bây giờ nó đã
là bạn của Hạt Muối. Để tỏ tình thân, ông này cho nó những thức ăn vừa
miệng.
Buổi sáng hôm thứ hai, nó tìm cách tháo dây đến với ông ta
trong lúc ông đang “phân loại” giẻ rách. Tò mò, nó dừng lại. Hạt Muối
giữ thói quen là khi nào cũng để một lít rượu, một cái cốc vừa tầm tay.
Như thế, ông khỏi mất công đứng dậy, uống một ngụm, khi thèm. Sáng hôm
ấy, bận công việc, ông không kịp nhìn chung quanh. Trời đã nóng, ông
lại chăm chú làm việc cho nên cái khát đã đến. Cái khát đã cho ông cái
biệt danh Hạt Muối. Vào lúc ông sắp lấy chai rượu, ông thấy Palica vươn
cái cổ dài ra, nhìn ông chăm chú.
- Mày làm cái gì ở đây thế?
Nghe giọng ông gắt gỏng, con lừa chẳng thèm nhúc nhích.
- Mày muốn uống một cốc hả? Hạt Muối hỏi.
Đối với ông ta, mọi ý nghĩ đều xoay quanh chữ uống. Đáng lẽ ông nâng
cốc lên miệng. Để đùa chơi, ông đưa cái cốc cho Palica. Palica cho sự
mời mọc này là thật tình nên đã bước hai bước lên phía trước. Nó đưa
đôi môi mà nó cố tạo cho thật mỏng, thật dài, rồi hít một hơi hết nửa
cốc rượu đầy tận miệng.
- Nhìn kìa! Hạt Muối reo lên, cười như nắc nẻ.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Ông ta gọi:
- Bà Hầu tước! Bố Cá Chép!
Nghe tiếng gọi, bọn
họ chạy đến, cả ông lượm giẻ rách đang mang cái giỏ đầy vừa trở về bãi
và ông chủ xe bán kẹo kéo. Ông này thường đi các chợ và những nơi có lễ
hội để bán hàng. Ông treo một cục đường dẻo vào một cái móc quay và kéo
ra những cuộn vàng, xanh, đỏ như một cô thợ đang kéo sợi từ cái xa
quay.
- Có chuyện gì thế? Bà Hầu tước hỏi.
Ông ta lại rót đầy cốc rượu vào đưa cho Palica.
- Bà sẽ thấy, nhưng bà phải thật bình tĩnh.
Cũng như lần trước, con lừa uống hết nửa cốc, giữa những tiếng cười và tiếng la, hét của đam người đang nhìn nó.
- Tôi nghe nói lừa thích uống rượu, nhưng tôi không tin.
- Con này là một bợm nghiền! Người khác thêm vào.
- Ông phải mua nó để nó làm ban với ông! Bà Hầu tước nói với Hạt Muối.
- Để cho đủ thôi mà!
Hạt Muối không mua Palica. Ông bàn với Perin ngày thứ tư sẽ dẫn nó ra
Chợ Ngựa. Điều đó làm cho Perin nhẹ nhõm trong người. Trước đó, em
không thể nào tưởng tượng nổi em làm cách nào để tìm ra cái Chợ Ngựa
giữa Paris. Em cũng không biết làm cách nào để bán con lừa, tranh cái
già bán và nhận tiền mà không bị lừa đảo. Đã nhiều lần, em nghe kể
những chuyện về tụi trộm cắp ở Paris nên em cảm thấy bất lực, không thể
chống cự, nếu không may gặp chúng.
Sáng thứ tư, Perin bận rộn sửa
soạn cho Palica. Đây là một dịp để em vuốt ve, hôn hít nó. Nhưng than
ôi! Buồn làm sao! Em sẽ chẳng gặp lại nó! Rồi nó sẽ vào tay ai, chú bạn
tội nghiệp này? Nghĩ đến điều ấy, em lại tưởng như nhìn thấy những con
lừa khốn khổ mà em đã gặp trên mấy con đường lớn ở khắp nơi. Trên quả
đất này, có lẽ lừa sinh ra là để chịu đau khổ! Thật ra, từ dạo Palica
về với gia đình em, nó cũng có những nỗi cực nhọc, thiếu thốn, nắng dãi
mưa dầu, tuyết rơi, băng giá. Nhưng ít ra, nó chưa bao giờ bị đánh đập.
Chắc nó cũng cảm thấy nó đã chia sẻ số phận cực khổ của gia đình cô chủ
như một người bạn. Còn bây giờ? Perin chỉ biết run sợ tự hỏi những
người chủ mới của nó sẽ như thế nào? Em đã gặp nhiều người chủ, rất
nhiều người ác, mà không biết mình độc ác!
Palica lộ vẻ ngạc
nhiên, khi thấy người ta không thắng vào cỗ xe mà lấy dây tròng vào cổ
nó. Còn ngạc nhiên hơn nữa, khi Hạt Muối không muốn đi bộ từ Xaron đến
Chợ Ngựa, đã để một cái ghế trên lưng nó và leo lên ngồi, vì Perin dắt
nó, chuyện trò với nó, nên nó không chống cự. Với lại Hạt Muối chẳng
phải là bạn của nó sao? Họ đi như thế, Perin dắt Palica. Con lừa đi rất
nghiêm trang qua các con đường ít xe cộ và người qua lại. Họ đến một
cái cầu rất rộng rồi đến một khu vườn. Bây giờ xe cộ, tàu điện qua lại
nhộn nhịp. Dắt con lừa đi giữa đường Perin phải hết sức chú ý.
Cuối cùng, họ leo lên một cái dốc, không đứng lắm, và đến trước một cửa
song sắt lớn! Ở phía trong cửa sắt, có một khoảng đất rộng mà người ta
đã ngăn ra nhiều chuồng để nhốt ngựa. lúc ấy, Hạt Muối nhảy xuống đất.
Trong khi ấy, Palica đã có đủ thời gian nhìn chung quanh nó, cho nên
khi Perin muốn dắt nó vào phía trong cửa sắt, nó không chịu đi. Hay là
nó đã đoán được đây là cái Chợ Ngựa, người ta bán ngựa, bán lừa. Hoặc
là nó sợ? Mặc dù Perin đã lấy giọng âu yếm, rồi mệnh lệnh nói với nó,
nó vẫn đứng yên. Hạt Muối đẩy phía sau thì nó đi tới, nhưng Palica
không đoán được bàn tay ai đã sỗ sàng để trên mông nó. Nó bèn vừa đá
hậu, vừa thụt lùi và kéo Perin theo luôn. Một vài người to mò dừng lại
vây quanh họ. Ở hàng đầu, như thường lệ, là những người bán báo và ván
bánh kẹo. Người nào cũng góp ý về cách đưa con vật qua cửa. có kẻ nói:
- Đây là một con lừa gây nhiều lý thú cho thằng ngốc nào mua nó.
Lời nhận xét nguy hiểm ấy có thể gây khó khăn cho chủ bán lừa nên Hạt Muối vội phân bua:
- Nó tinh lắm! nó đoán người ta đem bán nó. Nó bày những trò ấy để khỏi xa những người chủ nó.
- Ông có chắc thế không? Hạt Muối?
- Ông không nhận ra La Cucơri sao?
- Ừ nhỉ!
- Con lừa này là của ông?
- Không, của cô bé.
- Ông biết cô ta?
- Chúng tôi đã uống chung một cốc rượu đấy nhé! Nếu bà cần một con lừa tốt, tôi xin giới thiệu nó với bà.
- Tôi cần, nhưng cũng chẳng cần…
- Thế thì chúng ta đi nhậu đã! Cóc cần phải trả tiền vào cửa làm gì!
- Hơn nữa, hình như nó cũng không chịu vào!
- Tôi đã nói với bà là nó láu cá lắm!
- Nếu tôi mua nó, không phải để nó làm những trò láu cá ấy, cũng chẳng phải để nó uống rượu, mà để nó làm việc.
- Nó dai sức lắm! nó đi từ Hy Lạp đến đây không nghỉ.
- Từ Hy Lạp.
Hạt Muối ra hiệu cho Perin đang đi theo. Em chỉ được nghe vài tiếng
trong câu chuyện của hai người. Bây giờ palica ngoan ngoãn đi theo cô
chủ, không cần kéo dây tròng vì không phải vào chợ.
Sau khi đi
vào một con đường nhỏ. Hạt Muối là La Rucơri dừng lại trước một quán
rượu. Người ta mang chai rượu, hai cái cốc đặt trên bàn, bên lề đường.
Trong lúc đó, Perin đứng trước mặt họ, ở ngoài đường, tay vẫn giữ cái
dây buộc con lừa.
- Rồi bà xem nó có tinh không chứ!
Hạt Muối nói và đưa cốc rượu cho con lừa.
Ngay tức khắc, Palica vươn dài cái cổ, đưa môi hít ngay nửa cốc rượu,
trong lúc Perin không dám ngăn lại. Hạt Muối thắng lợi, nói:
- Thấy chưa?
Nhưng La Rucơri không chia sẻ nỗi vui của ông ta.
Tôi không cần nó để uống rượu! Tôi cần nó để kéo chiếc xe chở những tấm da thỏ của tôi!
- Tôi đã nói với bà rồi mà! Con lừa này kéo một cỗ xe từ Hy Lạp đến!
- A, đó lại là chuyện khác!
Việc kiểm tra Palica được làm cẩn thận và tỷ mỉ. Sau đó La Rucơri hỏi
Perin định giá bao nhiêu. Em nói là một trăm phờ răng, cái giá mà em đã
bàn với Hạt Muối. Nhưng bà ta hét toáng lên: “Một trăm phờ răng, một
con lừa bán không có bảo đảm! Cô coi thường thiên hạ quá!”. Thế rồi con
Palica khốn khổ lại phải chịu một cuộc kiểm tra, để người ta chê bai đủ
thứ, từ cái mũi đến cái móng. “Hai mươi phờ răng”. Nó chỉ đáng thế
thôi! Thế là được giá lắm rồi.
- Được thôi! Hạt Muối sau một cuộc tranh cải nói. Chúng tôi sẽ dắt nó vào chợ!
Perin thở phào. Ý nghĩ chỉ nhận được hai mươi phờ răng đã làm em chết
điếng! Trong hoàn cảnh hiện nay, thì hai mươi phờ răng cũng chưa đủ để
mua sắm những thứ cần thiết nhất!
- Để xem lần này nó có chịu vào không! La Rucơri nói.
Con lừa ngoan ngoãn đi theo cô chủ đến cổng Chợ Ngựa. Đến đó, nó đứng
ỳ. Perin phải năn nỉ, vừa nói vừa kéo nó nhưng nó nằm ngay ra giữa
đường.
Palica, tao van mày! – Perin tức tối, kêu lên. Nhưng con lừa giả vờ chết, không nghe gì hết!
Người ta vây quanh và bông đùa. Có kẻ nói:
- Hãy lấy lửa đốt đuôi nó!
- Bán nó kể cũng gay đấy. Có người hưởng ứng.
- Cứ nện mạnh vào là xong thôi!
Hạt Muối nổi khùng, Perin thất vọng.
Các người thấy đấy, nó không chịu vào! La Rucơri nói. Thấy nó tinh
khôn, chắc là nó tốt, tôi trả ba mươi phờ răng vậy, nào nhanh lên! Nhận
tiền đi. Nếu không bằng lòng thì tôi mua con khác.
Hạt Muối đưa
mắt hỏi Perin, đồng thời cũng ra hiệu, bảo cô bé nên bằng lòng. Như bi
tê liệt vì thất vọng, em không thể quyết định. Vừa lúc ấy, để cho con
đường được thông suốt, một cảnh sát đến, nói cộc cằn:
- Đi lên, hoặc lùi lại đi chứ? Không được đứng ở đây.
Perin không thể tiến lên vì Palica không muốn đi. Vậy thì phải lùi lại.
Khi con lừa hiểu chủ nó không bắt nó phải vào chợ, nó đứng lên ngoan
ngoãn theo cô bé, vẫy tai một cách thoải mái.
La Rucơri giao số tiền ba mươi phờ răng cho Perin bằng những đồng năm phở răng và nói:
- Bây giờ, phải đưa cái ông này về nhà giúp tôi! Tôi vừa mới quen, có
thể ông ta chẳng chịu theo tôi về đường Lầu Răngchiê. Cũng gần đây
thôi!
Con đường ấy đối với Hạt Muối là quá xa, nên ông không đồng ý, ông nói với Perin:
- Cháu đi theo bà đi! Đừng buồn, cháu ạ! Bà ta là người tốt. Con lừa của cháu sẽ không khổ đâu.
- Cháu làm sao trở về Xaron được? Perin hỏi. Lần đầu tiên em thấy Paris rộng mênh mông và sợ bị lạc!
- Rất dễ thôi! Cháu cứ đi dọc theo các thành luỹ.
Giờ phút chia tay đã đến! Sau khi buộc con lừa vào chuồng. Perin không
cầm được nước mắt, nên đã làm ướt cả đầu nó trong khi hôn nó. La Rucơri
nói:
- Nó ở đây không khổ cực đâu! Bà hứa với cháu điều ấy!
- Chúng cháu thương nhau lắm, bà ơi!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Rồi đây, hai mẹ con em sẽ xoay xở thế nào với ba mươi phờrăng, trong khi dự chi đến một trăm phờrăng.
Bà mẹ quyết định:
- Phải đi thôi! Phải đi ngay tức khắc đến Marôcua.
- Mẹ đã khỏe chưa?
- Mẹ phải cố gắng chứ! Chúng ta đã chờ đợi quá lâu vì hy vọng mẹ sẽ
bình phục: nhưng sự bình phục ấy sẽ không đến ở nơi này đâu! Trong lúc
ấy thì túi tiền của chúng ta đã cạn cũng như số tiền bán con Palica tội
nghiệp rồi sẽ mòn dần. Mẹ cũng muốn chúng ta không đến đó trong tình
trạng nghèo khổ này. Nhưng biết đâu cái nghèo khổ càng thảm hại càng
làm cho người ta thương cảm. Cần phải đi thôi!
- Ngay hôm nay sao?
- Hôm nay thì muộn rồi! Chúng ta sẽ đến đó trong đêm tối thì biết về
đâu kia chứ? Sáng mai vậy! Chiều nay, con đi hỏi giờ tàu chạy tuyến
đường sắt khu Bắc và giá vé đi đến ga Pichkynhi.
Perin bối rối
hỏi Hạt Muối. Ông ta bảo em phải tìm trong đống giấy chắc sẽ thấy bản
hướng dẫn của đướng sắt. Theo giấy hướng dẫn, buổi sáng có hai chuyến:
lúc sáu giờ và mười giờ. Giá vé hạng ba đến ga Pichkynhi là chín
phờrăng hai lăm, một chỗ ngồi.
- Chúng ta sẽ đi chuyến mười
giờ, - Bà mẹ nói – Chúng ta thuê xe ngựa. Mẹ không thể đi bộ đến ga
được vì quá xa! Mẹ chỉ đủ sức đi đến bến xe ngựa.
Thế nhưng bà không đi đến đó được!
Lúc chín giờ, bà muốn tựa vào con gái đi đón xe vì Perin đã đi gọi
và xe sắp đến. Từ buồng mẹ con bà ra đường cái không phải là xa nhưng
tim bà yếu quá! Nếu Perin không đỡ kịp, thì bà đã ngã rồi!
- Rồi mẹ sẽ khỏi thôi! – Bà nói thầm thì – Con đừng lo! Rồi sẽ tốt thôi!
Tuy nhiên, thật chẳng tốt tí nào! Bà Hầu tước trông thấy hai mẹ con
ra đi như thế, đã mang đến một cái ghế. Một cố gắng tuyệt vọng đã nâng
đỡ bà mẹ của Perin cho tới đây. Bởi thế, khi bà ngồi xuống ghế thì bị
choáng! Bà ngạt thở, không nói được nữa!
- Phải để mẹ cháu nằm
dài, bà Hầu tước nói, phải xoa bóp cho mẹ cháu! Không hề gì đâu, cháu
đừng sợ! Cháu đi gọi Bố Cá Chép. Có hai người, bác sẽ đưa mẹ cháu về
buồng! Mẹ con cháu không thể ra đi… ngay bây giờ được.
Bà Hầu
tước là một phụ nữ giàu kinh nghiệm. Khi người bệnh nằm dài, tim lại
đập, hơi thở trở lại bình thường. Một lát sau, bà mẹ Perin muốn ngồi
dậy, vì thế bà lại ngất.
Bà thấy đó, bà phải nằm yên! – Bà Hầu
tước nói như ra lệnh. Ngày mai, bà sẽ lên đường! Bây giờ, bà dùng một
tách nước hầm. Tôi sẽ hỏi xin Bố Cá Chép cho bà.
Không đợi trả lời, bà vào buồng ông láng giếng ngồi làm việc và nói:
- Ông cho tôi xin một tách nước hầm cho người bệnh!
Một nụ cười thay câu trả lời của Bố Cá Chép. Ngay tức khắc, ông ta
mở vung cái nồi đất đang sôi trên bếp. Mùi thơm của nồi hầm tỏa ra
trong gian buồng.
Ông ta tự hào và sung sướng, trợ mắt, phồng mũi nhìn bà Hầu tước.
- Ừ, mi hầm ngon quá! Bà Hầu tước nói. Nếu bát nước hầm này cứu được
người phụ nữ khốn khổ thì bà ta sẽ được cứu sống! Nhưng bà Hầu tước hạ
thấp giọng, ông biết đấy, bà ấy mệt nặng, chắc không thể sống được!
Bố Cá Chép đưa tay ra. Với động tác ấy, ông muốn nói: “Chúng ta còn biết làm thế nào được chứ?”.
Họ làm gì ư? Thì mỗi người một cách, họ cũng đã làm nhưng tai họa là
một việc thường xảy ra với những người nghèo khổ, làm cho họ không còn
thấy ngạc nhiên và cũng không phản ứng nữa! Ở trên đời này, ai trách
được tai họa kia chứ? Bạn hôm nay, tôi ngày mai, thế thôi! Bố Cá Chép
đã múc bát nước hầm cho bà Hầu tước. Bà cẩn thận mang về, không để rơi
vãi một giọt. Bà quỳ gần bên nệm, nói với người bệnh.
- Bà húp một miếng! Đừng cử động, hãy há miệng!
Rất cẩn thận bà đổ một thìa nước hầm vào trong miệng người bệnh.
Người bệnh không nuốt được, lại nôn ra và một cơn choáng kéo dài hơn
lần trước, lại đến! Đúng thế, nước hầm không hợp với người bệnh! Bà Hầu
tước nhận thấy vậy. Để khỏi lãng phí, bà bắt Perin uống bát nước hầm.
- Cháu cần phải có sức! Phải cố gắng! Cháu ạ!
Với bà Hầu tước bát nước hầm là phương thuốc chữa bách bệnh. Bây
giờ, bà không còn thấy hiệu nghiệm nữa thì bà cũng bó tay! Bà không còn
nghĩ được cách gì hay hơn là đi gọi ông thầy thuốc. Có thể ông ấy sẽ
làm được việc gì chăng! Tuy ông thầy thuốc vẫn kê đơn, nhưng khi ra về,
ông đã nói thẳng với bà Hầu tước rằng ông không thể cứu được người
bệnh:
- Đây là một phụ nữ kiệt sức vì đau khổ, đói rét, phiền
muộn và mệt nhọc. Nếu đi tàu, bà ấy sẽ chết trên tàu. Bây giờ chỉ còn
tính giờ thôi! Có lẽ một cơn choáng sẽ đón bà ấy đi!
Tuy thầy
thuốc nói chỉ tình giờ nhưng không phải thế! Sự sống với tuổi già dễ
tắt ngấm thì sức chịu đựng của tuổi trẻ dai hơn! Người bệnh không nuốt
được cả nước hầm lẫn thuốc men, tuy tình trạng sức khỏe không khá hơn,
cũng chẳng xấu đi! Bà ta nằm dài, vẫn thoi thóp trên nệm, không cử
động, gần như không thở, trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê.

thế, Perin vẫn hy vọng. Ý nghĩ về cái chết ám ảnh những người lớn tuổi.
Họ gặp cái chế ở khắp nơi, rất gần tuy nó đang còn ở xa. Tuổi trẻ thì
không thể chịu nổi, từ chối không muốn nhìn nó, dù lúc ấy, nó đe dọa
ngay trước mắt! Tại sao mẹ không lành bệnh? Tại sao mẹ phải chết? Đến
năm sáu chục tuổi người ta mới chết mà mẹ chưa đến ba mươi! Mẹ làm gì
nên tội mà phải chết yểu kia chứa? Mẹ là người phụ nữ dịu hiền nhất,
người mẹ rất mực thương con, suốt đời tốt với chồng, con và mọi người!
Không thể như thế được. Trái lại, mẹ sẽ lành bệnh! Perin tìm ra được
những lý lẽ tốt nhất để chứng minh. Ngay trong trạng thái nửa tỉnh, nửa
mê của bà mẹ, em cũng cho đó là cách nghỉ ngơi rất tự nhiên sau những
ngày mệt nhọc và thiếu thốn. Mặc dù vậy, khi quá xốn xang vì lo ngại,
em vẫn hỏi ý kiến bà Hầu tước. Bà này trấn an em, vì bà cũng đang hy
vọng:
- Mẹ cháu không thể chết được. Bà đã thoát được cơn choáng đầu tiên rồi mà!
- Có đúng thế không ạ?
- Hạt Muối và Bố Cá Chép cũng nghĩ như vậy!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Bây giờ, được người ta động viên và cũng tự trấn an mình nên Perin
có thể yên tâm về tình trạng bà mẹ. Nỗi lo lắng lớn nhất của em là tự
hỏi số tiền ba mươi phờrăng của La Rucơri đến hôm nào thì hết? Những
chi tiêu của mẹ con em, dù cố dè xẻn mấy đi nữa, vẫn khi thì khoản này,
khi thì khoản nọ và còn những chi tiêu bất thường nữa, cứ làm mòn nhanh
chóng số tiền kia! “Tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống” bay đi rất
nhanh! Khi tiêu hết đồng xu cuối cùng, thì hai mẹ con em sẽ đi đâu? Tìm
đâu ra chút ít tiền vì mẹ con em có còn gì nữa đâu! Thật vậy, chẳng còn
chút gì, ngoài mấy cái quần rách tơi tả. Làm sao hai mẹ con em đến
Marôcua được chứ?
Một buổi chiều, Perin đang ở trong trạng
thái lo ngại, bàng hoàng thì cảm thấy bàn tay bà mẹ mà em đang nắm bổng
siết chặt tay em.
- Mẹ cần gì? Trở về với thực tại, em vội vàng hỏi.
- Nói chuyện với con! Vì đã đến lúc mẹ phải trối trăn rồi!
- Ối! Mẹ ơi!
- Đừng ngắt lời mẹ, con thân yêu, hãy cố gắng đừng xúc động quá
mạnh, cũng như mẹ, không để cho nỗi thất vọng lấn át. Mẹ cũng muốn làm
cho con đừng lo sợ, vì thế hôm nay, mẹ vẫn im lặng. Mẹ không muốn con
đau khổ, nhưng mẹ phải nói, dầu là chuyện ấy rất đau lòng cho hai mẹ
con ta! Mẹ sẽ là một bà mẹ tồi, yếu đuối và hèn nhát. Ít nhất là dại
dột nếu còn chần chừ! Bà mẹ nghỉ một lát, vừa để thở vừa để cho những ý
nghĩ chập chờn được sáng tỏ:
- Chúng ta phải xa nhau!
Perin nức nở, vì không thể chịu đựng nổi nữa!
- Ừ, thật là dễ sợ, con thân yêu, tuy nhiên mẹ tự hỏi có phải như
thế là tốt cho con không? Con sẽ được giới thiệu là một cô bé mồ côi
chứ không phải có một bà mẹ mà người ta xua đuổi! Dẫu sao trời đã muốn
thế, con sẽ ở lại một mình trên đời. Trong vài phút nữa, hoặc là ngày
mai…
Sự xúc động ngắt lời bà mẹ. Một lát sau, bà lại nói:
- Khi mẹ không còn nữa, có những thủ tục phải làm. Con hãy lấy trong
túi áo mẹ tờ giấy bọc trong hai lớp lụa và con đưa cho những ai hỏi
con: Đó là giấy hôn thú trong đó có tên mẹ và tên cha con! Con xin
người ta trả lại cho con vì nó rất cần thiết để sau này xác nhận việc
khai sinh của con. Con phải giữ thật cẩn thận. Tuy nhiên, con cũng có
thể làm mất, con phải học thuộc lòng, để đừng bao giờ quên! Cái ngày mà
con đưa trình tờ giấy ấy, con xin một bản sao. Con nghe rõ mẹ nói chứ?
Con có nhớ hết những gì mẹ nói với con không?
- Thưa mẹ, có ạ.
- Con sẽ khổ, bị tê liệt, nhưng đừng nản lòng! Khi con chẳng còn gì
để làm ở Paris, ở đây con sẽ trơ trọi, cô đơn! Con phải đến Marôcua!
Nếu có đủ tiền để mua vé, con đi xe lửa. Nếu không có đủ tiền thì con
đi bộ. Thà con nằm ngủ bên vệ đường, nhịn đói, còn hơn là ở lại Paris.
Con hứa với mẹ chứ?
- Con xin hứa!
- Tuy hoàn cảnh
của chúng ta thật là khủng khiếp, nhưng đối với mẹ thật là nhẹ nhõm khi
nghĩ mọi việc rồi sẽ xảy ra như thế!
Thế nhưng sự “nhẹ nhõm”
ấy không đủ mạnh để lướt một cơn choáng mới! Trong một thời gian khá
lâu, bà mẹ không thở, không nói, không cử động. Perin cúi xuống người
mẹ, run rẩy lo lắng, luống cuống vì thất vọng.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Tiếng gọi ấy làm bà mẹ hồi tỉnh:
- Hồi nãy, bà thì thầm, đứt quãng – Mẹ còn phải dặn con vài điều
nữa! Mẹ phải làm việc ấy, nhưng mẹ không nhớ đã nói gì với con rồi! Con
đợi một lát nhé!
Một lát sau, bà lại nói:
- Thế này
nhé, ừ thế đấy… Con đến Marôcua. Đừng vội vàng, con không có quyền đòi
hỏi gì hết! Con sẽ nhận được cái gì do tự con, tự ở con mà thôi! Con
phải tốt bụng, làm sao cho người ta yêu con… Người ta không thể nào
ghét con gái của mẹ! Thế là chấm dứt hoạn nạn.
Bà mẹ chắp tay lại và cái nhìn của bà có vẻ xuất thần.
- Mẹ thấy con… ư, thấy con sung sướng! Mẹ ước ao được chết với ý
nghĩ ấy và hy vọng hình ảnh của mẹ sống mãi trong trái tim con!
Bà thành khẩn nói những lời ấy như lời cầu nguyện. Rồi kiệt sức, vì
đã cố gắng, bà lại rơi mình xuống tấm nệm, bất động. Nhưng bà không
ngất vì còn thở thoi thóp.
Perin đợi một lát, thấy mẹ vẫn ở
trong trạng thái ấy, em rời khỏi buồng. vừa đến khoảng đất rào kín, em
khóc nức nở và gieo mình trên cỏ. Hình như quả tim, cái đầu, đôi chân
em đều bị tê liệt vì đã tự kiềm chế quá lâu! Trong vài phút, Perin đứng
đó, kiệt quệ, nghẹn ngào! Mặc dù ở trạng thái vô tri vô giác, em vẫn ý
thức được rằng em không nên để mẹ nằm một mình. Perin đứng dậy, cố gắng
trấn tĩnh một chút, ít nhất là ngoài mặt. Em giữ cho nước mắt khỏi tuôn
trào và nén những cơn nấc tuyệt vọng. Bóng tối trùm lên khu bãi. Perin
đi mà chẳng biết em đi đâu, thẳng tiến về phía trước, hay cứ loanh
quanh một chỗ! Em cố giữ mình để đừng khóc to nhưng lại càng nức nở!
Perin đi ngang chiếc xe goòng, có lẽ lần này là lần thứ mười. Bác bán
kẹo kéo vẫn theo dõi em từ trước, ra khỏi nhà, tay cầm hai cái kẹo, đến
gần và nói với giọng thông cảm.
- Cháu có chuyện buồn.
- Ối, bác ơi!
- Cháu cầm lấy! Ông ta đưa hai cái kẹo cho Perin. Những của ngọt này rất tốt khi người ta có chuyện buồn phiền.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

GIÃ TỪ CÕI CHẾT

Cầu kinh
siêu độ xong, vị cố đạo rời khỏi nghĩa địa. Bà Hầu tước vẫn ở bên cạnh
Perin, còn đứng trước ngôi mộ. Bà đưa cánh tay quàng lưng em và nói:
- Ta đi về chứ!
- Ôi, bác ơi!
- Nào! Phải đi về thôi! Bà nhắc lại, như ra lệnh, rồi nắm cánh tay Perin, kéo đi.
Họ đi như thế, Perin không hay biết những gì đang xảy ra chung quanh
và người ta sẽ dẫn em đi đâu! Tất cả ý nghĩ, tình cảm, sự sống, em đã
để lại nơi mẹ.
Họ dừng lại trong một con đường vắng. Bà Hầu
tước đã thả tay em. Perin thấy Hạt Muối, Bố Cá Chép và bác bán kẹo kéo
ở bên cạnh. Em nhận ra họ một cách lờ mờ: Bà Hầu tước đội mũ có ru băng
đen. Hạt Muối ăn mặc chỉnh tề và đội chiếc mũ cao. Bố Cá Chép đã thay
chiếc tạp dề muôn thuở, để mặc chiếc áo choàng xẻ vạt, màu hạt dẻ, dài
đến chân. Bác bán kẹo kéo mặc chiếc vét bằng da. Bọn họ, những người
Paris chính cống, trọng vọng sự từ biệt, đã mặc lễ phục để đi dự đám
tang.
Là người quan trọng nhất trong nhóm, Hạt Muối lên tiếng trước:
- Cháu ạ, bác cho cháu hay là cháu không phải trả tiền buồng. Cháu muốn ở lại bãi Guylô bao lâu cũng được.
- Nếu cháu muốn đi với bác, cháu sẽ kiếm đủ sống. Cũng là một nghề hay đấy chứ! Bà Hầu tước tiếp theo.
Bác bán kẹo cũng nói:
- Cháu thích làm bánh kẹo không? Bác sẽ nhận cháu. Nghề này cũng hay lắm mà là một nghề chân chính đấy!
Bố Cá Chép không nói nhưng nụ cười trên cái miệng ngậm tăm và một cử
chỉ của bàn tay như đưa mới, ông lão đã nói rõ cho mọi người hay sự dự
định giúp đỡ của ông. Khi nào cô bé cần một tách nước hầm tuyệt ngon,
mời đến gặp ông lão.
Những đề nghị xâu chuỗi ấy làm cho Perin
không cầm được nước mắt. Cái ngọt ngào của những giọt nước mắt đã chảy
hai hôm nay, đốt cháy ruột gan em!
- Ôi, các bác thương cháu quá! – Perin thì thầm.
- Chúng tôi có thể giúp được gì chúng tôi sẵn sàng thôi! Hạt Muối nói.
- Không thể để một cô gái ngoan như cháu bơ vơ giữa Paris này – Bà Hầu tước nói thêm.
- Cháu không ở Paris đâu. Cháu phải đi ngay đến nhà bà con cháu!
- Cháu có bà con? Hạt Muối ngắt lời, trong lúc nhìn những người
khách với dáng điệu như muốn nói những người bà con ấy cũng chẳng đáng
giá bao nhiêu – Bà con cháu ở đâu?
- Ở quá Amiêng.
- Cháu đi Amiêng bằng cách nào? Cháu còn tiền không?
- Cháu không có đủ tiền để đi tàu hỏa, vì vậy cháu sẽ đi bộ.
- Cháu biết đường chứ?
- Cháu có một bản đồ trong túi.
- Bản đồ có chỉ cho cháu con đường giữa Paris để đến Amiêng không?
- Không, nhưng nếu bác chỉ cho cháu.
Ai cũng nhiệt tình muốn chỉ cho cô bé đường đi Amiêng. Có những ý kiến trái ngược làm cô bé lẫn lộn. Hạt Muối ngăn lại:
- Cháu muốn lạc đường thì cứ nghe các ông, các bà ấy. Này, hãy mua
chiếc vé sau xu, đón chuyến tàu hỏa vòng quanh thành phố đến Nhà Thờ
phía Bắc. Đến đó, cháu sẽ tìm thấy đường đi Amiêng. Cháu chỉ việc đi
thẳng một mạch. Khi nào cháu đi!
- Ngay bây giờ! Cháu đã hứa với mẹ cháu đi ngay mà!
- Cháu phải vâng lời mẹ cháu, - Bà Hầu tước nói – Hãy đi đi! Nhưng để cho bác hôn cháu đã! Cháu là một cô gái dũng cảm!
Những người đàn ông bắt tay. Em bé Perin chỉ còn việc ra khỏi nghĩa
địa. Thế nhưng em do dự và định quay trở lại chỗ ngôi mộ mẹ. Vừa lúc
ấy, bà Hầu tước đoán được ý nghĩ của em, can thiệp:
- Sao vậy? Cháu phải đi Amiêng? Thế thì đi ngay đi! Như thế tốt hơn!
- Ừ, cháu đi đi! Hạt Muối tiếp lời.
Perin đưa bàn tay, gởi cả tấm lòng biết ơn, cúi đầu chào từ biệt. Em
rời khỏi nơi đó, bước vội vàng, lưng rướn ra phía trước, như là đang
chạy trốn!
- Tội nghiệp con bé!
Khi Perin lên ngồi
trên chiếc xe lửa đi quanh phố em lục trong túi áo, lấy chiếc bản đồ cũ
kỹ quả nước Pháp. Từ dạo rời nước Ý, em đã sử dụng cái bản đồ này.
Đường đi từ Paris đến Amiêng rất dễ. Chỉ cần theo đường Cale ngày xưa,
những xe thư thường đi theo con đường ấy, nên có một gạch đen nhỏ trên
bản đồ. Đến Amiêng thì đi đường Bulônhơ. Em tính khoảng cách từ đó đến
Marôcua phải ngót một trăm năm chục cây số. Nếu mỗi ngày đi ba chục cây
số thì phải sáu ngày mới đến nơi! Nhưng làm thế nào để đi ba chục cây
số một ngày, rồi ngày mai lại đi tiếp ba chục cây số nữa?

Perin đã quen đi bộ bên cạnh Palica hết dặm này đến dặm nọ. Em thấu
hiểu đi bên cạnh con lừa khác với việc đi ba chục cây số một mình, hết
ngày này qua ngày khác! Đôi chân sẽ bị tê liệt, đầu gối cứng đờ. Với
lại thời tiết sẽ như thế nào trong sáu ngày ấy? Trời quang, mây tạnh
luôn không? Trời nắng, em có thể đi dầu nắng mấy cũng được. Nhưng nếu
trời mưa? Em sẽ làm thế nào vì chỉ có một bộ áo quần rách như xơ mướp
để che thân. Em có thể nằm ngủ dưới một gốc cây trong đêm hè đẹp trời.
Tán lá che được sương sa, nhưng khi mưa thì những hạt mưa qua kẽ lá, to
hơn hạt mưa ở giữa trời!
Ướt thì em vẫn thường bị ướt. Đến cả
một cơn mưa rào, Perin cũng không sợ! Nhưng làm thế nào để có thể chịu
ướt trong sáu ngày, từ sáng đến chiều, và từ chiều đến sáng?
Khi Perin trả lời với Hạt Muối không có đủ tiền để đi tàu lửa, em muốn nói có đủ tiền để đi bộ, nếu không quá dài ngày.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Thật ra, Perin có năm phờrăng ba mươi lăm. Khi rời khỏi bãi Guylô.
Em vừa trả mất sáu xu vé tàu. Bây giờ em còn năm phờrăng và một xu nằm
trong túi cái váy em đang mặc. Mỗi lần Perin cử động mạnh, em nghe
tiếng tiền kêu! Phải làm sao cho số tiền này đừng hết! Nó phải giúp em
đi đến nơi. Hơn thế nữa, nó còn phải giúp em sống vài ngày ở Marôcua.
Có thể được như thế không nhỉ?
Perin không giải đáp được câu hỏi liên quan. Khi nghe báo: “Ga Nhà Thờ” em xuống tàu, tìm ngay con đường đi Xanh Đơni.
Bây giờ, chỉ còn việc đi thẳng về phía trước. Còn hai, ba giờ nữa
mặt trời mới lặn. Em hy vọng đến lúc ấy, đã đi khá xa Paris để có thể
nằm ngủ giữa cánh đồng. Chuyện ấy đối với em càng tốt.
Thế
nhưng, trái với sự chờ đợi của Perin, liên tục nhà máy này nối tiếp
xưởng máy nọ. Xa xa, trong cánh đồng, em đã nhìn thấy những mái nhà và
những ống khói cao đang nhả những luồng khói đen thui như trong cơn
lốc. Từ các nhà máy, nhà xe, xưởng máy, tỏa ra những tiếng ồn ào dữ
dội. có những luồng hơi nước thoát ra… Trong lúc ấy, cũng trên con
đường này, trong đám mây bụi dày đặc, màu vàng hoe, những chiếc xe vận
tải, xe bò, tàu điện nối đuôi nha hay đi ngược chiều thành hàng dài.
Trên những chiếc xe bò ấy có những tấm bạt với dòng chữ “Xưởng Marôcua,
Vunphran Panhđavoan” đã từng đập vào mắt em lúc ở Bécxy. Paris không
bao giờ hết ư? Mình không ra khỏi đây chăng? Perin không sợ im lặng của
ban đêm, những bí mật của bóng tối mà sợ Paris, những dãy nhà, đoàn
người, ánh sáng của Paris.
Một tấm biển xanh dính vào góc một
ngôi nhà, cho Perin hay đã vào Xanh Đơni. Điều ấy làm cho em tin tưởng.
Sau Xanh Đơni, ắt là đến vùng thôn quê. Tuy Perin không đói nhưng em
nghĩ nên mua một miếng bánh để ăn trước khi ngủ nên vào một hiệu bánh.
- Bà làm ơn bán cho cháu nửa ký bánh.
- Có tiền không? Mụ bán bánh hỏi vì không tin em bé ăn mặc rách rưới này.
Mụ đang ngồi sau quầy hàng. Perin để đồng năm phờrăng lên quầy.
- Đây là đồng năm phờrăng. Xin bà trả lại tiền lẻ cho cháu!
Trước khi cắt bánh, mụ ta cầm đồng năm phờrăng, quan sát kỹ.
- Cái gì thế này? Mụ ta hỏi trong lúc dằn đồng bạc trên mặt đá của quầy hàng.
- Bà thấy rõ rồi chứ? Đó là đồng năm phờrăng.
- Đứa nào xui mày để mày dám đem đồng năm phờrăng này đưa cho bà?
- Không ai cả! Cháu nói lại, bà bán cho cháu nửa ký bánh để ăn tối.
- Thế thì mày không có bánh đâu? Xéo nhanh lên, nếu mày không muốn bà báo cho cảnh sát bắt mày!
Perin không phải là đối thủ của mụ ta. Em ấp úng:
- Tại sao lại báo cho họ bắt cháu?
- Bởi vì mày là một con ăn cắp!
- Ối, bà ơi!
- … Mày muốn đưa cho bà một đồng bạc giả. Có trốn đi không, đồ ăn
cắp, đồ du đãng! Cứ đợi đấy một lát, bà sẽ đi gọi một ông cảnh sát đến
cho mà xem!
Perin biết mình không phải là con ăn cắp nhưng em
không biết đồng năm phờrăng này thật hay giả! Còn du đãng thì đúng quá
bởi vì em chẳng có chổ ở cũng chẳng có bố mẹ, bà con! Nếu cảnh sát hỏi,
Perin sẽ trả lời thế nào đây? Rồi họ sẽ làm gì em? Nhanh như tia chớp,
những câu hỏi ấy hiện lên trong trí óc em. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh
nguy nan Perin vẫn nghĩ đến đồng năm phờrăng trước khi nghĩ đến việc bị
bắt.
- Nếu bà không muốn bán cho cháu thì ít nhất bà cũng trả lại đồng năm phờrăng cho cháu, Perin vừa nói vừa đưa bàn tay.
- Để mày đi chổ khác, đưa đồng năm phờrăng này hả? Bà giữ đồng năm
phờrăng của mày. Nếu mày muốn lấy lại, thì mày đi tìm một ông cảnh sát
đến đây! Chúng tao sẽ cùng kiểm tra. Trong khi chờ đợi, hãy cút đi, đồ
ăn cắp!
Tiếng la hét của mụ bán bánh làm cho ba, bốn khách bộ hành dừng lại, tò mò, trao đổi với nhau:
- Có chuyện gì thế
- Cái con này muốn ăn cắp!
- Khi người ta cần thì chẳng thấy bóng dáng cảnh sát.
Hoảng hốt, Perin tự hỏi em có đi được không? Thế nhưng người ta cũng
cho em đi. Những lời chửi rủa, la ó đuổi theo em. Em không dám chạy
trốn, cũng không dám quay lại nhìn xem người ta có đuổi theo không? Sau
vài phút đối với em như là vô tận, Perin đến cánh đồng, thở phào nhẹ
nhõm vì đã vượt qua tất cả! Mình không bị bắt! Không còn nghe lời mắng
chửi! thật ra, Perin có thể nói: không có cơm ăn, không có tiền, nhưng
đó là chuyện tương lai! Với những người suýt chết đuối, khi choài được
lên mặt nước, ý nghĩ đầu tiên của họ không phải là để tự hỏi tối nay và
trưa mai họ được ăn gì?
Thế nhưng, sau khi được thấy mình thoát
nạn, cái ý nghĩ về bữa ăn ám ảnh Perin dữ dội! Không phải em chỉ sợ cho
chiều hôm nay mà còn ngày mai và những ngày tiếp theo. Perin không còn
quá ngây thơ để tưởng tượng nỗi buồn phiền sẽ nuôi em sống. Em hiểu
người ta không thể nhịn đói mà đi. Khi tính toán về chuyến đi, em chỉ
nghĩ đến nỗi mệt nhọc ở dọc đường, cái rét lúc đêm xuống và cái nóng
giữa ban ngày. Còn cái ăn đã có đồng năm phờrăng! Em chỉ còn một xu!
Làm thế nào để mua được nữa ký bánh cần dùng hàng ngày! Em lấy gì để
ăn?
Tự nhiên, Perin đưa mắt nhìn quanh hai bên đường đi và
trong đám ruộng. Ánh nắng hoàng hôn trải trên đám lúa mì mới phơi màu.
Những cây củ cải đường xanh mơn mởn và những cây linh lăng thảo, xa
tiền thảo thì chẳng ăn được! Với lại, nếu những đám ruộng ấy trồng dưa
có quả chín, hay dâu sai quả thì cũng chẳng có ích gì? Em không thể đưa
tay ra hái trộm dưa hay quả dâu! Em không thể là ăn cắp, ăn xin, du
đãng. Ôi, Perin muốn gặp một con bé cũng khổ sở như em để hỏi xem tụi
du đãng lấy dì mà sống trên con đường dài, qua những xứ sở văn minh! Ở
trên đời còn có ai khốn khổ, cực nhục hơn Perin? Cô đơn không cơm ăn,
nhà ở, không có người nâng đỡ, rã rời, kiệt sức, nghẹt thở. Toàn thân
nóng ran như đang bị sốt vì buồn phiền.
Thế nhưng Perin vẫn
phải đi, tuy chẳng hiểu khi đến nơi, người ta có mở cửa đón mình không?
Làm thế nào mà đi đến nơi được nhỉ?
Trong đời sống hàng ngày,
tất cả chúng ta đều có những giờ phút dũng cảm hoặc thất vọng. Những
lúc ấy, cái gánh mà chúng ta phải mang tự nhiên nặng hay nhẹ hơn. Với
Perin, buổi chiều tối thường làm em buồn vô cớ. Cái gánh càng nặng hơn
khi bỏ thêm vào đó những nỗi đau khổ em vừa mới trải qua, mà trong lúc
này, em đang phải gánh. Chưa lúc nào Perin thấy lúng túng vì phải quyết
định. Như một ngọn nến bập bùng, có thể tắt ngấm trước gió, em nghiêng
ngả bên này, bên kia như một người say không thể gượng nổi. Buổi chiều,
hè đẹp trời, không một gợn mây, một làn gió càng buồn với em. Buổi
chiều ấy dịu dàng, đối với những người khác, những bác nông dân đang
ngồi trước cửa, hân hoan sau một ngày làm việc. Buổi chiều ấy tươi vui,
đối với những người lao động ngoài đồng ruộng. Trở về, đang hít thở mùi
xúp ngon lành của bữa cơm chiều. Bầy ngựa cũng đang nhanh chân về
chuồng để nghỉ ngơi trước máng cỏ đầy ắp.
Khi Perin ra khỏi
làng thì em ở giữa hia con đường lớn đều đi đến Cale; một đường đi
Êcuăng, một đường đi qua MoaDen, theo tấm biển chỉ đường em đi theo con
đường Êcuăng, Perin vẫn muốn đi nữa, tuy bắp chân đã mõi nhừ và đôi
chân đau buốt. Buổi chiều tối mát mẻ, vắng lặng làm em cảm thấy yên tâm
hơn buổi sáng. Trên đường đi, chẳng ai thèm để ý đến em. Nhưng nếu đi
ngay bây giờ, em sẽ phải dừng lại, khi đã quá mệt. Lúc ấy, không thể
chọn được một chổ tốt trong đêm tối! Chắc chắn em đành phải nằm ngủ
trên lề đường hay trong một đám ruộng gần đấy. Như thế, thì không yên
tâm được! trong hoàn cảnh này, cốt làm sao cho tấm thân trẻ dại được an
toàn, mong gì sự thoải mái! Perin nghĩ nên lợi dụng lúc trời còn sáng,
tìm một chỗ để trú ẩn và nằm ngủ để nghĩ ngơi.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Loài chim đi ngủ sớm. Khi trời còn sáng hẳn là để chọn nơi trú ẩn
tốt! Perin phải noi gương các con thú vật vì em đang sống như chúng.
… Đến lúc chỉ nhìn thấy cảnh vật lờ mờ, và chờ không có tiếng động
trên đường, Perin lướt nhẹ, bò qua đám atisô đến túp lều. Em không thể
tưởng tượng nó được sắp xếp chu đáo đến thế! Có một lớp rơm dày phủ
trên nền đất và một bó sậy làm gối.
Từ Xanh Đơni, Perin như
con thú bị vây bắt. Nhiều lần, em quay đầu xem cảnh sát có bám gót và
bắt giữ để làm sáng tỏ câu chuyện đồng năm phờrăng của em? Trong túp
lều, dây thần kinh của em được giãn ra. Trên đầu Perin có một mái nhà,
từ đó tỏa xuống sự êm dịu. một cảm giác yên tĩnh lẫn tin cậy nâng đỡ
em. Không phải em đã mất hết đâu! Chưa phải là tất cả đã chấm dứt!
… Perin nhắm mắt lại. Từ dạo cha em qua đời, mỗi khi ngủ, em liên
tưởng hình ảnh người cha. Tối nay, bên người cha, có hình ảnh người mẹ
mà em vừa tiễn ra nghĩa địa trong cái ngày ghê sợ này! Perin thấy cha
mẹ cúi xuống, hôn em như lúc cha mẹ còn sống. Em nấc lên, rồi kiệt sức
vì mệt mỏi, kiệt sức hơn nữa vì quá cảm động, em ngủ thiếp. Tuy rất
mệt, giấc ngủ của Perin vẫn chập chờn. Thỉnh thoảng, tiếng xe lăn bánh
trên đường cái làm em tỉnh giấc. Một con tàu hỏa đi qua hay một tiếng
động bí mật của đêm tối cũng làm tim em đập mạnh. Rồi em nằm ngủ lại.
Nếu Perin biết lúc ấy là mấy giờ thì có lẽ em còn nằm ngủ lại đến bình
minh. Nhưng vì không biết giờ giấc, nên em nghĩ lên đường ngay là cẩn
thận nhất. Ở nông thôn, người ta dậy sớm. nếu sáng hôm sau, một bác
nông dân nào đó thấy em từ túp lều đi ra, thì phiền lắm!
Thế là
Perin trườn khỏi túp lều, rồi bò ra khỏi đám ruộng. Em căng tai nghe
ngóng, dõi mắt trông chừng. Em đã đến đường cái an toàn rồi lại tiếp
tục đi với những bước chân vội vã. Trên nền trời không gợn mây, chi
chít những ngôi sao đã mờ nhạt. Về phía đông, một ánh sáng yếu ớt dộ
qua những sâu thẳm của đêm tối! Bình minh sắp đến! Perin không phải đi
lâu. Em đã nhìn thấy, trước mặt, trên nền trắng của bầu trời, một đám
đen lờ mờ, in trên một phía các mái nhà, những ống khói và một lầu
chuông. Trong lúc đó, phía bên kia, tất cả chìm trong bóng tối.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Khi đến những ngôi nhà đầu tiên, theo bản năng, Perin đi rất êm.
Nhưng sự đề phòng ấy thầt là vô ích! Tất cả còn đang ngủ. Ngoài đường
chỉ có mấy con mèo hoang. Em đánh thức vài con chó đang đứng sau những
cánh cửa khóa kín, và đang sủa. Ở đây chẳng khác gì một làng xóm của
những người chết. Perin đi ngang qua một đám linh lăng thảo, mà người
ta vừa mới cắt xong, đem chất những bó nhỏ trên mắt đất bằng phẳng làm
thành những đống đen thui. Em vượt qua đường, moi trong dám cỏ ấy một
chổ để nằm ngủ. Hơi ấm dịu dàng, đượm hương thơm của cỏ, bao bọc em.
Cánh đồng hoang vắng, không có tiếng động, tiếng ồn, tất cả như đang
còn ngủ. Dưới ánh sáng tỏa ra từ phương Đông, cánh đồng như mênh mông,
bát ngát. Được nghỉ ngơi, nằm trong hơi ấm, và cũng nhờ hương thơm của
thứ cỏ khô ấy là dịu bớt nỗi buồn nôn vì Perin quá đói. Lát sau, giấc
ngủ đến với em.
… Sau giấc ngủ ngon, Perin cảm thấy khỏe khoắn
và đi thêm vài cây số, khá tươi tỉnh. Bây giờ, em lại thấy đói, dạ dày
co thắt làm em choáng váng. Em váng óc, ngáp dài và thấy đau buốt hai
bên thái dương. Khi đã leo lên dỉnh một cái dốc cao thì em nhìn thấy ở
sườn đồi bên kia, có những mái nhà nhỏ của một lâu đài đồ sộ nhô lên
trên khu rừng. Lúc ấy, Perin quyết định đi mua một miếng bánh. Em đang
còn một xu trong túi. Tại sao không dùng mà chịu nhịn đói. Thật ra, khi
tiêu hết đồng xu này, em sẽ không còn gì hết! Nhưng biết đâu một sự
tình cờ may mắn lại không đến giúp em. Có nhiều người nhặt được tiền
trên đường đi. Có thể em cũng gặp cái may ấy, bởi vì đã gặp rủi quá
nhiều rồi! Đó là không kể những hoạn nạn đã vùi dập em.
Perin
nhìn kỹ đồng xu của mình để xem có phải là đúng là tiền thật không?
Khốn thay, em nào biết những đồng xu thật ở nước Pháp khác những đồng
xu giả như thế nào? Bởi vì thế khi vào hiệu bánh đầu tiên em gặp, em
hồi hộp, lo sợ cái sự việc bất ngờ đã xảy ra ở Xanh Đơni, lại tái diễn
ở đây! Em nói:
- Xin ông làm ơn cắt cho cháu một xu bánh!
Không trả lời, ông ta lấy trên quầy một chiếc bánh nhỏ một xu, đưa cho Perin. Đáng lẽ, đưa tay đón lấy, em do dự:
- Cháu không cần bánh mới ra lò. Xin ông cắt bánh cũ cho cháu! Em lại nói.
- Đây, cầm lấy!
Ông ta đưa cho Perin một miếng bánh mà chẳng cần cân, đã nằm lăn lóc
trên quầy hàng từ hai, ba hôm nay. Nhưng bánh cũ cũng được! Cái quan
trọng là miếng bánh này to hơn miếng bánh nhỏ một xu và thật thế, nó to
ít nhất là gấp đôi!
Khi Perin cầm miếng bánh trong tay, miệng
em tứa đầy cả nước bọt. Tuy thèm ăn lắm, nhưng em muốn đợi ra khỏi
làng. Rời khỏi những ngôi nhà. Cuối cùng, em lấy con dao trong túi, vẽ
một chữ thập trên miếng bánh, để chia bốn phần bằng nhau. Em cắt nhỏ
một miếng: đó là bữa ăn duy nhất của ngày hôm ấy. Em để dành ba miếng
cho những ngày sau. Em tính toán, dù mấy miếng bánh quá bé nhỏ, chúng
cũng sẽ đưa em đến vùng gần Amiêng.
Khi đi qua làng. Perin đã
làm con tính ấy. Việc thực hiện cũng rất đơn giản, dịu dàng đối với em.
Nhưng khi vừa nuốt một mẩu của miếng bánh nhỏ bé, em đã cảm thấy những
lý lẽ mạnh nhất ở trên đời này, chẳng có quyền lực gì đối với cái đói!
Trong cái đáng làm và không nên làm là những nhu cầu của chúng ta quy
định cũng thế! Em đang đói. Thế thì em phải ăn! Và em nhai ngấu nghiến
miếng bánh thứ nhất. Em tự nhủ, sẽ nhấm nháp miếng bánh thứ hai lâu
hơn. Nhưng miếng bánh ấy cũng được ngốn rất nhanh, và miếng bánh thứ ba
theo miếng bánh thứ hai. Em không tự chủ được, tuy đã tự nhủ hãy ngừng
lại.
Cái gì xảy ra sao cái đói đó là cái khát. Perin cảm thấy
cổ họng khô khốc. Buổi sáng thật là nóng nực. Ngọn gió nam thổi làm mồ
hôi ra như tắm và người em nóng như lửa. Người ta thở ra cái không khí
như thiêu như đốt. Dọc theo hai lề đường, những hoa bìm bìm màu hồng,
những hoa cải màu xanh nhạt, đang tàn úa trên những cành mềm héo của
chúng.
Lúc đầu Perin không hề lo lắng về cái khát. Nước có sẵn
cho mọi người! Em không phải vào hiệu để mua nước! Khi có một con sông
hay một máy nước, em chỉ có việc quỳ gối xuống, hay khom mình để uống
thoải mái.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Nhưng chính lúc này, Perin đang ở trên cao nguyên của vùng “Hòn Đào nước Pháp”. Từ RuyĐnông đến Thevơ không có sông!
Tiếp theo Êcuăng, trong cái làng bé nhỏ mà em vừa đến, Perin đã nhìn
mãi hai bên đường mà vẫn không thấy cái máy nước “thần tiên” mà em chờ
đợi! Ai cũng có giếng riêng hay giếng của bác láng giềng. Thế là đủ
rồi! Còn ai nghĩ đến những người đi lang thang thường bị khát, để đặt
máy nước?
Trên con đường trắng xóa, không có cây cối, trời
nóng như thiêu đốt. Ngọn gió cuốn bụi mù mịt bao phủ Perin. Cái khát
càng làm thêm khó chịu. Đã lâu rồi, em không có nước bọt trong miệng!
Cái lưỡi khô cứng làm em như đang ngậm một vật gì trong mồm. Để khỏi
ngạt, Perin há miệng, làm như thế cái lưỡi lại càng khô hơn, họng càng
cứng hơn! Kiệt sức, Perin nghĩ nên bỏ đá sỏi vào mồm, những hòn đá sỏi
láng bóng mà em có thể nhặt trên đường đi – Chúng sẽ cho em một chút ẩm
ướt, làm cho lưỡi mềm hơn, nước bọt bớt dính.
Lòng can đảm trở
lại với Perin, đồng thời là niềm hy vọng. Trong khi vượt biên giới, em
đã biết trước Pháp không phải là bãi sa mạc thiếu nước. Cứ nhẫn nại rồi
thế nào em cũng tìm thấy một con sông, một cái ao, một máy nước. Vả lại
dẫu cái nóng vẫn ngột ngạt và ngọn gió như từ một lò than hồng thổi ra,
nhưng mặt trời đã bị che lấp. Khi quay về phía Paris, em lại thấy trên
bầu trời mây đen mù mịt, che phía chân trời, một cơn giông đang đến! Nó
sẽ mang theo mưa và sẽ có nhiều vũng nước, những dòng nước ấy, Perin
tha hồ mà uống.
Một luồng gió mạnh thổi qua, hoa màu rạp cả
xuống. Gió làm rung chuyển cây cối, cuốn luôn những hòn sỏi trên đường
đi. Nó kéo theo trong cơn lốc: bụi, lá xanh, rơm, cỏ khô. Tiếng ồn ào
của nó đã dịu bớt. Người ta nghe về phía nam, những tiếng sấm rền xa xa
nối tiếp nhau như được khạc ra liên tiếp khắp nơi, về phía chân trời mù
mịt, không thể chịu nổi sức xô đẩy dữ dội ấy Perin nằm úp bụng xuống
cạnh đường. Em lấy tay che mặt và miệng. Những tiếng sấm dựng đứng em
dậy. Lúc đầu, em sợ khát, em chỉ nghĩ đến mưa. Sấm vừa lay em, vừa làm
cho em nhớ lại trong cơn giông không phải chỉ có mưa mà còn có những
tia chớp chói mắt, những thác nước, mưa đá và những tiếng sét. Perin sẽ
nấp vào đâu trong cánh đồng trống này? Nếu bị ướt, em làm thế nào cho
khô?
Perin nhìn thấy trước mặt, cách chừng hai cây số một bìa
rừng, ở giữa có đường đi. Em nghĩ bụng có lẽ em sẽ tìm được một chỗ trú
ẩn, một cái hầm hay cái hố để nấp.
Em có đến được khu rừng đó trước cơn giông không?
Perin thở hổn hển, nhanh chân bước. Thỉnh thoảng em quay đầu về phía
sau và thấy cơn giông trút quanh người em. Đám mây đên đi rất nhanh và
những tiếng nổ đuổi theo vây em trong vòng hỏa. Nghiêng người về phía
trước, để khuỷu tay sát vào hông, Perin chạy, vẫn dưỡng sức cho khỏi
ngã. Nhưng càng chạy nhanh, cơn giông còn chạy nhanh hơn! Cái giọng dữ
dội của nó hét trên lưng em là nó đã thắng! Trong trạng thái bình
thường, Perin có thể chống cự mạnh hơn. Nhưng mệt mỏi, đuối sức, choáng
váng, cái miệng khô khốc như lúc ấy, em không thể chống đỡ bằng một cố
gắng tuyệt vọng. Có lúc hình như em hụt hơi.
May thay, khu
rừng nhích lại. Bây giờ, Perin phân biệt rõ những cây cao thưa thớt sau
một vụ phá rừng. Chỉ còn vài phút nữa, Perin sẽ đến nơi. Ít nhất, em
cũng sẽ gặp được bìa rừng, tìm được một chổ để nghỉ ngơi, chứ còn ở đây
em không thể kiếm được một chổ như thế ngoài đồng. Chỉ cần niềm hy vọng
cho em thấy một dịp may có thể thực hiện, dầu lờ mờ, cũng đủ cho em có
thêm nghị lực. Đã bao lần, cha em nhắc nhỏ trong lúc hoạn nạn chỉ có
những người phấn đầu bền bỉ mới có khả năng được cứu sống. Và Perin đã
kịp đấu tranh. Ý nghĩ ấy nâng đỡ em, như có bàn tay của người cha đang
nắm tay em dắt đi. Một tiếng khô khốc mạnh hơn những tiếng khác, như
đóng đinh Perin xuống đất. Không gian tràn ngập những ngọn lửa. Lần này
sấm không đuổi theo Perin, nó đã theo kịp và đang ở ngay trên đầu. Thế
là em phải đi chậm lại, thà bị ướt còn hơn bị sét đánh.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Perin chưa đi được hai chục bước thì trận mưa đã đổ xuống với những
giọt nước to, dày đặc. Trận mưa rào bắt đầu, nhưng nó không kéo dài vì
gió đẩy nó đi và những tiếng sấm đứt quãng chận nó lại. Cuối cùng, em
đi vào khu rừng. Bóng tối đen nghịt không cho em nhìn thấy phía xa. Thế
nhưng dưới ánh sáng của một tia sét, em trông thấy hình như ở gần đấy
có một túp lều. Một con đường gồ ghề với những hố sâu dẫn đến đó.
Những ánh chớp chỉ cho em thấy là đã không lầm. Đây là nơi trú ẩn
của những người thợ rừng. Họ làm việc dưỡi mái lều lợp bằng những bó
củi cành để che mưa nắng, còn phải đi năm chục bước, rồi mươi bước, em
sẽ tránh được mưa. Em đã đến nơi. Kiệt sức, mệt nhừ vì đã chạy, cảm
động đến nghẹt thở, em gieo mình trên lớp dăm bào gỗ che kín mặt đất.
Perin chưa kịp thở thì một tiếng kêu răng rắc. Em tưởng như khu rừng sẽ
bị lôi đi. Những cây to lớn trơ trọi, vì người ta chặt lớp cây nhỏ bên
dưới, khom xuống. Cành cây chết rơi rụng khắp nơi, với những tiếng trầm
lặng, đè bẹp nộc non mới nhú trên các thân cây đã chặt tiện. Ngay lúc
đó, nước chảy như thác trên cái dốc mà các bác thợ rừng đã cho nghiêng
về phía Bắc. Không để cho ướt, Perin chỉ việc đưa cánh tay hứng nước
trong lòng bàn tay, uống cho đã khát.
Bây giờ, em chỉ còn đợi
cơn giông tạnh vì túp lều đã chống được hai cuộc tấn công của gió thì
chắc nó có thể chịu nổi các đợt khác! Không có một ngôi nhà nào chắc
chắn sánh cho nổi với túp lều bằng cây này. Ý nghĩ ấy làm cho Perin dễ
chịu! Em đã trải qua những cố gắng, những thao thức, những nỗi sợ hãi
ghê gớm, làm tê tái cả lòng dạ lẫn da thịt.
Với một tình cảm
nhẹ nhõm, tin cậy, mà lâu nay Perin chưa hề biết, mặc cho sấm sét vẫn
gầm rú, mưa vẫn đổ xuống như thác, gió vẫn rít qua các hàng cây, bão
dập ở trên không và trên mặt đất, em nằm dài trên đám dăm gỗ như nằm
trên gối, ngủ.
Phải chăng đây là một chân lý: Những người kiên trì phấn đấu đến cùng, sẽ được cứu thoát!
Khi Perin tỉnh dậy, sấm không còn rền vang nữa! Mưa vẫn rơi nhẹ hạt
và liên tục. Nước chảy như suối trong khu rừng làm rối loạn tất cả, em
đành phải chờ đợi, không thể nghĩ đến việc tiếp tục cuộc hành trình.
Chuyện ấy cũng chẳng có gì đáng cho em lo ngại, cũng chẳng làm cho
em phật ý. Khu rừng yên lặng và tịnh mịch, không làm cho em lo sợ. Em
đã yêu túp lều này vì nó khéo che chở em. Em vừa ngủ một giấc rất ngon
ở đây. Nếu cần phải ở lại, nơi đây có lẽ tốt hơn những nơi khác. Trên
đầu em có một cái mái và em có một cái giường khô ráo. Cơn mưa che lấp
bầu trời nên Perin đã ngủ quên và chẳng hay biết về thời gian trôi qua.
Lúc này, em không có một ý niệm về giờ giấc nhưng cái đó không quan
trọng! Đến chiều em sẽ biết!
Từ khi rời khỏi Paris, Perin
không có thời gian và cũng không có dịp để tắm rửa. Trên đoạn đường đi,
ngọn gió giông đã mang cát, bụi phủ một lớp dày từ đầu đến chân em, làm
hỏng cả da. Bây giờ, chỉ còn một mình, em lại thấy nước chảy quanh túp
lều, trong cái rãnh. Đây là thời gian thuận lợi vì cơn mưa kéo dài,
chẳng có ai đến quấy rầy em.
Trong túi chiếc váy, ngoài cái
bản đồ và giấy hôn thú của bà mẹ, có một gói nhỏ bọc trong một miếng
giẻ cũ. Một miếng xà phòng, một chiếc lược ngắn, một cái đê, một cuộn
chỉ có găm hai cây kim nằm trong gói. Perin mở gói, sau khi cởi áo vét,
giày và tất, em nghiêng mình trên dòng nước trong vắt đang chảy trong
lòng rãnh, em xoa xà phòng lên mặt, đôi vai và đôi chân, lấy miếng vải
bọc cái gói để lau. Tuy nó chẳng to và chẳng dày, nhưng có còn hơn
không!
Tắm rửa, cũng như giấc ngủ ngon đã là cho Perin khỏe
khoắn. Tồi em chải đầu, bện tóc thành hai lọn to,vàng hoe, để xỏa trên
vai. Giá cơn đói không trở lại dày vò cái dạ dày em và vài chổ cọ xát
của đôi giày không cấu xé hai bàn chân đến tróc da, bỏng thịt, giá
không có những cái đó thì thật là hoàn toàn dễ chịu! Tâm hồn yên tĩnh,
thân thể khỏe mạnh. Perin không thể làm gì để cho bớt đói. Túp lều là
nơi trú ẩn nhưng chẳng cho em chút thức ăn nào! Còn những vết tróc da
chân thì em nghĩ nếu vá được các lỗ thủng ở đôi bít tất em sẽ đỡ khổ.
Nghĩ thế, Perin bắt tay ngay vào công việc. Cũng mất khá nhiều thời
gian và không dễ dàng gì khi phải có bông để mạng mà em lại chỉ có chỉ
khâu. Công việc ấy còn có cái tốt là trong khi bận rộn Perin quên đói.
Nhưng việc đó không thể nào kéo dài được mãi! Khi em mạng xong đôi tất
thì trời vẫn mưa có khi dày, khi mỏng; Hạt mưa khi to, khi nhỏ và cái
dạ dày vẫn tiếp tục đòi hỏi, mỗi lúc càng gắt gao. Có lẽ Perin chỉ rời
nơi trú ẩn vào ngày mai. Mặt khác, không có phép màu nào để mang bữa ăn
tối đến cho em nên cái đói càng cấp bách. Nó chẳng để cho Perin suy
nghĩ gì khác ngoài việc nghĩ đến các thức ăn. Nó gợi cho em cắt những
cành cây phong đang che mái đầu để ăn. Việc ấy, dễ làm thôi, vì chỉ cần
leo lên mấy bó củi. Khi đi đường với cha, Perin đã thấy nhiều nơi người
ta dùng vỏ cây phong để chế các thứ nước giải khát. Thế thì cây này
không thuộc loại cây độc, ăn chết người; Nhưng cây phong có nuôi sống
được người không nhỉ?
Perin thí nghiệm, dùng dao chặt vài cánh
có lá chia từng miếng nhỏ rất ngắn rồi bắt đầu nhai một miếng, tuy răng
em rất chắc, nhưng vỏ cây cứng lắm! Nó lại chát và rất đắng nữa! Nhưng
không phải ăn nó thay quà bánh mà để sống nên có dở mấy, em cũng không
phàn nàn, chỉ mong đỡ đói và được sống. Thế nhưng, Perin chỉ có thể
nuốt được vài miếng mà phải nhổ ra gần cả miếng gỗ, sau khi đã đảo qua,
đảo lại một cách vô ích trong miệng.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Trong lúc Perin rửa mặt, vá đôi tất và cố gắng ăn những cành phong
thay bữa tối, giờ phút vẫn trôi qua. Bầu trời bị mưa làm vẩn đục, không
cho ta theo dõi mặt trời lặn. Hình như bóng tối, một lúc nào đó, cũng
đã tỏa lên khu rừng. Đêm sắp đến. Thật vậy, nó không chần chừ. Không
gian tối om như những ngày không có hoàng hôn. Mưa đã tạnh, một màn
sương mù trắng xóa nổi lên ngay. Trong vài phút, Perin đã chìm trong
bóng tối và im lặng. Cách mười bước, em không nhìn thấy ở trước mặt và
chung quanh. Perin chỉ còn nghe những hạt mưa rơi từ các cành cây xuống
mái lều hay trên những vũng nước gần đấy!
Tuy đã chuẩnbị tư
tưởng để ngủ lại nhưng Perin không khỏi cảm thấy tim bị bóp nghẹt vì
quá cô đơn! Em mất hút trong khu rừng, giữa đêm tối! Đúng là em vừa
trải qua, ngay ở chổ này đây, một phần của ngày hôm nay, may chẳng gặp
tai nạn gì, ngoài chuyện suýt bị sét đánh. Nhưng khu rừng ban ngày
không phải khu rừng ban đêm. Sự im lặng trang nghiêm và bóng tối bí ẩn
của nó chứa chất bao nhiêu là điều dễ sợ! Bởi thế, Perin không thể ngủ
ngay được như ý muốn. Cái đói đang cồn cào trong dạ dày. Perin lại còn
hoảng sơn vì những bóng ma của sự tưởng tượng. Những con thú nào sinh
sống trong khu rừng này? Liệu có chó sói không?
Ý nghĩ ấy làm
em hết buồn ngủ! Perin ngồi dậy, lấy một chiếc gậy rất chắc dùng dao
vót nhọn một đầu gậy. Em sắp những bó củi, chất chung quanh mình. Ít
nhất, nếu có chó sói tấn công, em có thể đứng sau thành lũy, chống lại
nó. Chắc chắn là em sẽ có can đảm. Perin yên tma khi nghĩ thế. Em lại
nằm xuống cái giường bằng dăm gỗ để ngủ lại, nắm chắc cây gậy nhọn
trong hai bàn tay. Giấc ngủ đến với em nhanh chóng.
Một tiếng
chim hót làm Perin tỉnh dậy. Tiếng hót trầm và buồn với những âm thanh
đều đặn và êm ái. Em nhận ra tiếng chim sáo. Em mở mắt và thấy trên mấy
bó củi, có ánh sáng lờ mờ trắng xóa, xuyên qua đêm tối của khu rừng.
Những thân cây, những lộc non nổi bật lên, đen thui giữa nền mờ nhạt
của bình minh: đó là buổi sáng.
Mưa đã tạnh, không còn gió làm
rung chuyển những chiếc lá nặng hạt mưa. Một sự yên tĩnh hoàn toàn bao
trùm tất cả khu rừng, chỉ có tiếng chim khuấy động. Tiếng hót vút lên
trên đầu Perin. Từ xa nhiều tiếng khác đáp lại như tiếng gọi ban mai
nối tiếp nhau kéo dài từ chỗ này sang chỗ khác.
Perin lắng
nghe và tự hỏi có nên đứng lên để tiếp tục cuộc hành trình? Em rùng
mình và đưa tay lên chiếc áo vét ướt đẫm như vừa gặp trận mưa rào. Ẩm
thấp của khu rừng đã thấm vào người em và bây giờ cái rét của buổi sáng
làm Perin giá lạnh. Em cảm thấy không được do dự, ngay tức khắc, đứng
lên và cử động rất mạnh như một con ngựa phì hơi. Perin nghĩ trong khi
đi sẽ được sưởi ấm. Perin nghĩ thế nhưng chẳng muốn đi ngay. Trời chưa
sáng tỏ, chưa biết thời tiết tốt xấu thế nào? Trước khi rời túp lều,
phải cẩn thận xem mưa có sắp đổ xuống không?
Để giết thời gian
và để vận động. Perin sắp lại những bó củi mà em vừa xáo trộn hôm qua.
Rồi em chải đầu, rửa mặt, bên cạnh một các hồ nước đầy nước. Khi Perin
làm xong mọi việc thì mặt trời lên thay thế bình minh. Bây giờ, qua đám
cành cây, bầu trời xanh nhạt xuất hiện, không một gợn mây. Buổi sáng,
chắc là đẹp trời và cả ngày chắc cũng thế. Em phải đi thôi!

Mặc dù đã mang tất, Perin vẫn cảm thấy đau đớn khi bước nên đi rất khó
khăn. Nhưng rồi cũng quen dần và chẳng mấy chốc, em đi nhanh với những
bước chân đều đều trên mặt đường vừa được mưa làm cho bớt cứng. Mặt
trời dọi những tia nắng xiên góc trên lưng, sưởi ấm Perin. Cùng lúc ấy,
nó chiếu trên sỏi một cái bóng dài đang đi bên cạnh em. Cái bóng ấy làm
cho em yên tâm, mỗi khi nhìn thấy nó. Tuy chẳng cho Perin hình ảnh một
cô gái ăn mặc lịch sự, ít nhất cái bóng ấy cũng không phải hình ảnh con
quỷ cái khốn khổ tối hôm qua: đầu tóc như tổ quạ, cái mặt bẩn thỉu,
xanh xao. Chắc là bây giờ chó sẽ không còn đuổi theo em và sủa ầm ĩ
nữa. Cũng không còn ai nhìn Perin với cặp mắt ngờ vực!
Trời
rất đẹp để cho Perin thêm hy vọng trong lòng. Chưa bao giờ em được thấy
một buổi sáng đẹp trời, tươi vui như thế này!
Cơn giông trong
lúc lau sạch mấy con đường, đã cho cây cỏ một cuộc sống mới, hình như
vừa mới hiện ra trong đêm. Bầu trời được sưởi ấm có hàng trăm con sơn
ca đang bay vút trong tầng mây và hót những bài hát vui vẻ. Mùi thơm
của cỏ hoa và mùa màng tỏa ra trên cánh đồng, quanh khu rừng làm cho
Perin thêm khoan khoái.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Có lẽ nào ở giữa niềm vui rộng khắp ấy chỉ riêng mình Perin tuyệt
vọng sao? Tai họa vẫn đeo đuổi theo em mãi chăng? Tại sao em lại không
gặp may? Perin đã gặp may khi tìm được nơi trú ẩn trong khu rừng. Rồi
đây, em có thể gặp nhiều dịp khác may mắn nữa chứ? Vừa đi, trí tưởng
tượng của Perin lại bay bổng. Trên đôi cánh của nó, em vẫn luôn nghĩ
đến chuyện đôi khi người ta làm rơi tiền trên đường đi, vì một cái túi
thủng đáy. Thế thì không phải điên rồ để em tự nhủ em có thể tìm thấy,
không phải là một túi tiền lớn phải trả lại mà chỉ là một xu hay đồng
mười xu. Perin có quyền giữ lại mà chẳng thiệt gì cho ai cả! Nhờ thế,
em sẽ được cứu sống! Perin lại nghĩ không phải là vô lý, nếu em gặp
dịp, nhận được việc làm, hoặc giúp người ta một việc gì để kiếm được
vài xu. Chỉ cần rất ít để sống trong ba bốn hôm. Và Perin đi như thế,
dán mắt trên đám sỏi đã được mưa rửa sạch. Em chẳng nhìn thấy đồng xu
to, hay đồng bạc trắng nhỏ bé nào rơi từ một cái túi thủng đáy. Em cũng
không gặp được những dịp có việc làm, như óc tưởng tượng phong phú của
em đã nghĩ.
Thế nhưng Perin lại cảm thấy những nỗi khó chịu
của hồi hôm lặp lại mãnh liệt. Em bắt đầu ngại không tiếp tục đi được
nữa! Ngực tức, miệng buồn nôn, đầu choáng váng! Mồ hôi toát ra như tắm,
làm tê liệt chân tay em. Perin không cần tìm hiểu nguyên nhân của những
rối loạn ấy. Cái dạ dày quằn quại đã mách cho em biết rồi! Em không thể
lặp lại cái thí nghiệm thất bại với cành cây phong. Em tự hỏi rồi sẽ ra
sao đây nếu một cơn choáng dữ dội bắt em phải ngồi lại bên đường? Em có
đứng lên nổi không?
Từ hôm qua, trong một cố gắng tuyệt vọng,
Perin đã đến được túp lều trong khu rừng. Lúc ấy, nếu có người nói với
em rồi đây em sẽ phải chấp nhận, không thể cưỡng lại được, cái ý nghĩ
về chết chóc do suy nhược và kiệt sức thì em sẽ căm giận ngay! Có phải
những người được cứu sống là những người đã phấn đấu đến cùng không
chứ? Nhưng hôm qua, đâu giống hôm nay! Hôm qua, Perin còn một ít sức
lực mà bây giờ em không có! Cái đầu của em lúc ấy còn minh mẫn, bây giờ
nó choáng váng rồi!
Perin nghĩ là phải dưỡng sức và mỗi lần
thấy mệt mỏi, em ngồi trên cỏ, nghỉ một lát. Trong khi Perin dừng lại
bên một đám ruộng đậu, em thấy bốn cô gái suýt soát trạc tuổi em, đi
vào đám ruộng được một bà nông dân chỉ vẽ và họ bắt đầu hái đậu. Thế là
Perin lấy hết can đảm bước qua đường, đến gặp người đàn bà. Nhưng bà
này ngăn em lại.
- Mày muốn gì? – Bà ta hỏi.
- Thưa bà, bà có cần cháu giúp gì không?
- Chúng tao không cần ai hết!
- Bà muốn cho cháu thứ gì, tùy bà!
- Mày ở đâu đến?
- Ở Paris.
Một trong các cô gái ngẩng đầu, nhìn xoi mói Perin, rồi hét:
- Cái con lang thang này từ Paris đến muốn chiếm việc của người ta hả?
Bà lớn tuổi lại nói:
- Tao đã nói với mày là người ta không cần ai hết!
Chỉ còn việc quay trở lại, bước qua lề đường và đi tiếp, Perin làm như vậy, lòng nặng trĩu, đôi chân mỏi nhừ.
- Cảnh sát kìa! – Một giọng thét lên. – Hãy trốn đi!
Perin quay nhanh đầu và bốn cô gái cười phá lên, rất khoái tra về
trò đùa của mình. Perin đi không xa và phải dừng lại. Em không thấy
đường vì nước mắt ướt đẫm hàng mi. Nào em đã làm gì họ, sao họ nỡ đối
xử với em tàn nhẫn vậy?
Đúng thôi, với những người lang thang,
việc làm cũng khó kiếm như những đồng xu lớn. Bằng chứng đã rõ. Vì thế,
em cứ tiếp tục đi, buồn rầu, không còn nghị lực ở trong lòng cũng như
trên đôi chân. Mặt trới dừng bóng càng làm cho Perin thấm mệt. Bây giờ,
em lết hơn là đi, chỉ bước nhanh khi đi qua làng, để khỏi gặp những cái
nhìn mà em tưởng tượng sẽ đuổi em! Trái lại, em đi chậm khi có một
chiếc xe từ phía sau vượt qua. Lúc nào, thấy có một mình, Perin dừng
lại để nghỉ ngơi và để thở. Nhưng rồi lúc ấy, cái đầu Perin lại làm
việc. Những ý nghĩ đang xuyên qua đầu óc em càng khiến em lo ngại và
chỉ làm cho em thêm suy nhược. Nhẫn nại mà làm gì khi đã nắm chắc mình
không đi đến nơi?
Thế rồi Perin đến một khu rừng. Ở giữa khu rừng
có con đường thẳng, xa thăm thẳm. Ánh nắng đã nặng nề và nóng bỏng trên
cánh đồng làm em ngột ngạt. Mặt trời rực lửa, không có một luồng không
khí. Dưới đám rừng thấp, cũng như hai bên mép đường, có những luồn hơi
ẩm ướt bốc lên, làm em ngạt thở. Bây giờ Perin cảm thấy kiệt sức. Mồ
hôi nhễ nhại, tim nhói đau, em để mình rơi xuống cỏ, không cử động cũng
như không suy nghĩ được gì nữa! Ừ, mình sẽ chết, không có cách gì cưỡng
lại, cũng không thể gắng gượng hơn nữa! Cha mình đã chết, mẹ mình cũng
đã chết, bây giờ đến lượt mình!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Trong các ý nghĩ đi qua đầu óc trống rỗng của Perin, cái ý nghĩ ác
nghiệt nhất là giá được chết với cha mẹ, thì em bớt khổ hơn! Còn bây
giờ, thì em phải chết như một con vật khốn khổ ở trong hố này! Perin
muốn làm một cố gắng cuối cùng, vào khu rừng, tìm một chỗ để nằm ngủ,
giấc ngủ ngàn thu. Một còn đường mòn xuyên qua gần đó, em rẽ vào và
cách năm chục mét, tìm được một khu rừng thưa, bé nhỏ, đầy cỏ mà bìa
rừng có những hoa móng tay xinh đẹp, màu tím. Rồi Perin nằm dài, gối
đầu trên cánh tay, dưới bóng những cành non của một cây lật. Buổi tối,
em vẫn nằm như thế để ngủ.
Một cảm giác nóng hổi trên mặt,
khiến em giật mình tỉnh dậy, Perin mở to mắt, sợ hãi khi nhìn thấy lờ
mờ một cái đầu to lớn đầy lông lá, đang cúi xuống người em. Perin muốn
lăn qua một bên để tránh. Một cái lưỡi to lớn, liếm trên mặt em và giữ
em lại trên vạt cỏ.
Sự việc diễn ra rất nhanh chóng nhưng
Perin vẫn đủ thời giờ để tìm hiểu: cái đầu to lớn, lông lá ấy là đầu
một con lừa. Con vật ấy lấy lưỡi liếm trên mặt, trên đôi tay Perin chìa
ra phía trước. Em đã nhìn rõ nó:
- Palica!
Perin ứa nước mắt, lấy tay quàng cổ nó và hôn nó.
- Ôi! Palica! Palica ngoan của chị!
Nghe gọi tên mình, nó dừng lại, không liếm cô bé và ngẩng đầu lên.
Nó kêu năm hay sáu tiếng vui mừng, sung sướng. Những tiếng kêu ấy đâu
có nói hết sự hài lòng của nó! Nó lại kêu năm, sáu tiếng khác cũng
không kém phần dữ dội. Khi ấy, Perin đã nhìn thấy con lừa không có yên
cương, chẳng có dây buộc cổ, chân bị trói. Perin chồm lên để lấy tay
vuốt ve và níu cổ nó, đặt đầu nó bên cạnh đầu mình. Nó thì cụp đôi tai
dài trên người cô chủ. Perin nghe một giọng khàn khàn đang hét.
- Mày làm gì thế, ranh con! Đợi một lát, bà đến ngay đây! Con ạ!
Thật thế, có những bước chân vội vã khua vang trên con đường đầy
sỏi. Perin thấy xuất hiện một người đàn ông, mặc bờ lu, đội mũ dạ,
miệng ngậm tẩu đang đi đến.
- Này, còn bé kia, mày làm gì con lừa của ta đấy? Lão hét lên, miệng vẫn ngậm tẩu.
Perin nhận ra ngay La Cucơri, bà bán giẻ rách, ăn mặc như đàn ông, đã
mua con Palica trong phiên Chợ Ngựa. Bà ta chưa nhận ra Perin, ngạc
nhiên nhìn em nói:
- Hình như bà đã gặp mày ở đâu rồi phải?
- Khi cháu bán con Palica cho bà?
- Sao, chính cháu đấy ư? Cháu làm gì ở đây?
Perin ngồi xuống vì quá mệt, không trả lời được. Nước da tái xanh, đôi mắt đẫm lệ, đã nói hộ cho em.
- Có thể con bé đói lả rồi! Bà ta thì thầm.
Không chần chừ, bà nhanh chóng rời bìa rừng đi ra phía đường cái. Ở
đó, có một chiếc xe nhỏ đã tháo dây. Trên các tấm màn, có treo những
tấm da thỏ. Nhanh tay, bà mở hòm lấy một ổ bánh, một miếng phômát, một
cái chai. Bà chạy đến, mang theo tất cả các thứ ấy. Perin vẫn ở trong
tình trạng như trước.
- Hãy đợi một lát, con gái của mẹ! Hãy đợi! La Cucơri nói.
Bà quỳ bên Perin, để đổ chai rượu vào giữa môi em.
- Hãy uống một ngụm cái này sẽ nâng đỡ cháu!
Thật ra, rượu đã đưa máu lên khuôn mặt xanh xao của Perin và giúp em cử động.
- Cháu đói à?
- Vâng!
- Thế thì bây giờ cháu phải ăn, nhưng đừng có vội vàng! Chờ một lát nhé!
Bà cắt một miếng bánh và một miếng phômát đưa cho Perin.
- Cứ ăn từ từ, cháu ạ! Hay là bác cùng ăn với cháu để cháu giữ được sự điều độ.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Sự đề phòng ấy thật là khôn ngoan bởi vì Perin đã ngoạm ngay vào
miếng bánh. Hình như em chẳng làm theo lời dặn của La Rucơri. Nãy giờ,
Palica đứng yên nhìn mọi việc đang xảy ra với đôi mắt to, dịu dàng của
nó. Khi thấy La Cucơri ngồi trên cỏ, bên cạnh Perin, nó quỳ xuống sát
cô chủ cũ.
- Ấy, chú ranh con này! La Cucơri nói. Nó muốn được chia một miếng bánh đấy!
- Bác cho phép cháu cho nó một miếng chứ?
- Một miếng hay hai miếng tùy cháu?
- Khi hết rồi trong xe vẫn đang còn nữa! Cháu đừng ngại. Gặp được
cháu nó thích thú biết bao, cái chàng trai tốt bụng ấy… vì cháu biết
đấy. Nó thật là một chàng trai ngoan nết!
- Đúng thế chứ ạ!
- Ừ! Ăn xong miếng bánh cháu nói cho bác hay tại sao cháu lại ở
trong khu rừng này, đói lả và gần chết như vậy? Quả thật đáng thương
nếu cháu chết!
Mặc cho những căn dặn của La Cucơri, Perin ngốn miếng bánh rất nhanh.
- Cháu muốn một miếng bánh nữa chứ? Bà ta hỏi khi thấy miếng bánh đã biến mất.
- Đúng thế!
- Này, cháu hãy kể chuyện của cháu rồi cháu sẽ có bánh! Trong thời gian kể chuyện, những gì cháu đã ăn, sẽ nén chặt lại.
Perin kể câu chuyện mà bà La Cucơri yêu cầu, bắt đầu từ cái chết của
bà mẹ. Khi kể đến đoạn mua bánh ở Xanh Đơni, La Cucơri kéo cái tẩu đã
đốt ra khỏi miệng, ném một tràng nguyền rủa kịch liệt về hướng mụ bán
bánh.
- Cháu biết không, đó là một mụ ăn cắp! Bà ta hét lên.
Bác chẳng khi nào đưa tiền giả cho ai, bởi vì chẳng bao giờ bác để cho
người ta nhét tiền giả cho bác! Hãy yên lòng, rồi mụ ta sẽ phải trả lại
khi bác qua Xanh Đơni, bác có những người bạn. Bọn họ sẽ đem lửa đốt
cửa hàng, nếu mụ ta lôi thôi!
Perin tiếp tục câu chuyện.
- Như thế, thì cháu đang chết dần đấy! La Rucơri nói. Cháu có cảm giác như thế nào?
- Nó bắt đầu là rất đau đớn. Có lúc cháu phải hét lên như người ta
hét trong đêm khi bị ngất. Rồi cháu mơ tưởng đến cõi Thiên đường và
những thức ăn ngon mà cháu sẽ được ăn tại đó. Mẹ cháu đang đợi cháu và
khuấy sữa sôcôla cho cháu. Cháu ngửi thấy thế.
- Lạ thật, cái
cơn nóng đáng lẽ giết cháu, lại cứu cháu sống lại. Nếu không có cơn
nóng ấy, bác chẳng dừng lại trong khu rừng này, để cho Palica nghỉ ngơi
và nó cũng chẳng nhìn thấy cháu. Bây giờ, cháu định làm gì?
- Đi tiếp hành trình của cháu!
- Rồi ngày mai, cháu sẽ ăn uống như thế nào? Có phải ở tuổi cháu,
người ta mới hay đi lông bông mại hiểm như thế này chăng?
- Bác nghĩ cháu còn làm được gì kia chứ?
La Rucơri rít hai hay ba hơi thuốc, vừa suy nghĩ rồi nghiêm trang trả lời cô bé:
- Này,bác đi Cơrây để mua hàng trong các làng và thị trấn ở trên
đường đi. Cháu cũng đi với bác, cháu hét một chút thử xem, nếu cháu có
sức, hét rao: “Da thỏ, giẻ rách, đồ sắt cũ, có ai bán không?”.
Perin làm cái việc mà bà ta yêu cầu:
-Tốt! Giọng cháu trong thật! Bác đau họng, cháu rao hàng thay bác,
như thế sẽ có cơm ăn. Đến Cơrây, bác quen một ông bán trứng thường đi
quanh vùng Amiêng để thu nhặt trứng. Bác sẽ nhờ ông ấy đưa cháu đi
trong chiếc xe của ông ta. Khi đến Amiêng, cháu lên tàu hỏa để đến xứ
sở của những người bà con của cháu.
- Cháu biết lấy gì mà trả tiền vé?
- Với một trăm xu mà bác sẽ ứng trước, thay đồng năm phờrăng mà mụ
bán bánh đã ăn cắp của cháu! Rồi bác sẽ bắt mụ trả lại cho bác, cháu
hãy tin như thế!
Mọi việc được sắp đặt như La Cucơri đã dự
định. Trong tám ngày liền, Perin đi khắp các làng ở hai bên khu rừng
Xăngtidy. Khi đến Cơrây, La Cucơri muốn giữ em lại:
- Cháu có
cái giọng đặc biệt, hợp với nghề buôn bán của bác. Cháu giúp bác và
cháu sẽ không cực khổ đâu; Chúng ta vẫn sống đàng hoàng mà!
- Xin cám ơn bác, nhưng cháu không thể làm thế được!
Bà thấy lý lẽ ấy chưa đủ, liền đưa ra một cái khác, vững hơn:
- Cháu sẽ không phải xa Palica.
Thật thế, câu nói ấy quả có làm cho Perin bối rối. Em cảm động, những vẫn giữ vững ý kiến:
- Cháu phải đến chỗ những người ruột thịt của cháu!
- Những người ấy có cứu cháu khỏi chết như Palica không?
- Bác ơi, cháu phải làm theo lời dặn của mẹ cháu! Cháu phải đến đó!
- Thế thì cháu đi đi! Nếu một ngày nào đó, cháu hối tiếc không nhận lời giúp bác, khi ấy cháu chỉ nên tự trách mình.
-Bác ơi, bác hãy tin rằng cháu không bao giờ quên bác!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

La Cucơri không giận Perin. Bà vẫn điều đình với ông bạn bán trứng
cho em quá giang trên chiếc xe của ông đến vùng Amiêng. Suốt một ngày,
em sung sướng được hai con ngựa đi nước kiệu chở. Perin nằm trên rơm,
dưới tấm bạt, trong khi suýt phải cuốc bộ mệt nhọc trên quãng đường dài
này. Đem so sánh sự thoải mái hiện nay với những cực nhọc đã trãi qua,
con đường dài trước kia hình như lại càng dài hơn nữa! Đến Éxăngđo em
nằm ngủ trong một vựa thóc. Sáng hôm sau là một ngày chủ nhật, Perin
đến quầy bán vé ở ga Aidy, đưa đồng một trăm xu mua vé. Lần này ngươi
ta không từ chối, cũng không tịch thu. Người ta đưa cho em chiếc vé đi
Píchkynhi và trả lại hai phờrăng bảy lăm. Perin đến lúc mười một giờ,
một buổi sáng đẹp trời và nóng ấm. Nhưng cái nóng dịu dàng ở đây không
giống cái nóng của khu rừng Xăngtidy. Em cũng chẳng còn giống cái con
bé khốn khổ lúc ấy nữa! Trong mấy ngày ở với La Cucơri, Perin đã mạng,
vá áo vét và chiếc váy. Em cắt được một cái khăn vuông trong đống giẻ
rách, giặt quần áo và đánh giày. Đến Aidy, trong lúc chờ tàu, Perin đã
rửa mặt, chân tay cẩn thận trong dòng sông và bây giờ em xuống tàu sạch
sẽ, vui tươi, nhanh nhẹn.
Nhưng cái gì còn hơn sự sạch sẽ, hơn
cả số tiền năm lăm xu đang kêu rủng rẻng trong túi áo, đã nâng đỡ em?
Đó là niềm tin đã trở lại với Perin, sau những thử thách vừa qua. Em đã
thắng vì em đã nhẫn nại đến cùng, không chịu bỏ cuộc. Chẳng lẽ em không
có quyền hy vọng: tin tưởng mình sẽ thắng những khó khăn còn lại? nếu
cái khó khăn lớn nhất chưa hoàn thành được, thì ít nhất Perin cũng đã
làm được cái gì đó gian khổ, nguy hiểm nhất rồi.
Ra khỏi nhà
ga, Perin đi qua một cái cầu bắc trên cống ngầm. Bây giờ em bước thoăn
thoắt qua cánh đồng cỏ xanh tươi có trồng những cây dương và cây liễu.
Trên cánh đồng rải rác có đầm lầy. Trên đường đi, em gặp mấy người câu
cá với một mớ dụng cụ. Họ buông cần, cúi mình theo dõi chiếc phao.
Perin nhận ra ngay đó là những người câu cá không chuyên nghiệp, diện
quần áo lễ hội từ các thị xã đến đây. Những mỏ than bùn nối tiếp những
đống nhỏ đen thui, chất theo hình dọc và được đánh dấu bằng chữ trắng
hay con số. Đây là những than bùn xếp để phơi nắng. Biết bao lần, bố em
đã nói với em về những mỏ than ấy và những vết thương của nó: những cái
ao, hồ lớn mà khi người ta lấy hết than bùn thì lại đầy nước. Đó là nét
đặc biệt của thung lũng sông Xôm. Em còn biết những người câu cá say mê
ấy, dù nóng, dù rét, họ cũng không nản chí. Đâu không phải là một xứ
mới đối với em. Trái lại em đã hiểu biết và yêu mến nơi này, tuy mắt em
chưa bao giờ nhìn thấy. Em đã biết những thành phố trần trụi, thấp lè
tè, đang bao quanh thành thung lũng. Em cũng biết nhờ ngọn gió biển
những cối xay lúa đang quay, ngay cả những hôm thời tiết yên tĩnh.
Cái làng đầu tiên mà Perin đến, em cũng nhận ra đó là Xanh Pipô. Ở
đây, có xưởng dệt, xưởng làm đay, phụ thuộc vào những nhà máy ở
Marôcua. Trước khi đến đó, em vượt qua một cổng xe lửa. Con đường sắt
nối liền nhiều làn. Những làng ấy đều là những trung tâm chế tạo của
hãng Vunphran Panhđavoan, rồi đến sát nhập vào con đường sắt lớn của
Bulônhô.
Tuy những cây dương trong thung lũng che khuất hay
phơi bày cảnh vật, Perin nhìn thấy những gác chuông bằng đá đen của các
làng ấy và những ống khói cao bằng gạch của các xưởng máy. Hôm nay là
ngày chủ nhật nên chúng không tỏa khói. Perin đi qua nhà thờ, vào lúc
những người đi lễ vừa rời khỏi đó. Nghe họ trao đổi, em nhận ra cái
giọng địa phương có tiếng kéo dài như hát mà bố em thường nhại. Khi đùa
với em.
Từ Xanh Pipô đến Marôcua hai bên đường có trồng liễu.
Con đường ấy đi vòng giữa những đống than bùn, đang vượt một nền đất ít
di động hơn là hướng theo đường thẳng. những người đi theo con đường
ấy, chỉ trông thấy được mấy bước phía trước, cũng như phía sau. Bởi thế
Perin suýt đụng đầu một thiếu nữ chậm chạp vì phải xách một cái giỏ
nặng. Niềm tin đã trở lại, nên Perin mạnh dạn hỏi:
- Đây là đường đi Marôcua, phải không chị?
- Phải, thẳng băng!
- Ôi, thẳng băng! – Perin vừa cười, vừa nói. – Nó không thẳng như thế đâu!
- Nếu có rắc rối, thì tôi cũng đi Marôcua. Chúng ta hãy cùng đi!
- Thế thì may cho tôi quá! Chị cho tôi giúp chị mang cái giỏ nhé?
- Cảm ơn chị. Nó nặng lắm đấy!
Vừa nói, cô ta vừa để cái giỏ xuống đất, thở phào khoan khoái!
- Chị cũng ở Marôcua? – Cô thiếu nữ hỏi.
- Không, còn chị?
- Tôi thì ở đấy là chắc chắn rồi!
- Chị có làm ở nhà máy không?
- Có chứ, cũng như mọi người ở đây. Tôi làm ở xưởng suốt.
- Là cái gì vậy?
- Này, chị không biết xưởng suốt à? Thế thì chị ở đâu đến đây?
- Ở Paris.
- Ở Paris, người ta không biết xưởng suốt thì lạ thật! Nó là những cái máy đánh chỉ để quấn vào suốt cho thoi chạy.
- Mỗi ngày người ta lĩnh được khá chứ?
- Mười xu.
- Có khó lắm không?
- Không khó lắm! Cần phải tinh mắt và không để phí thời giờ. Chị có muốn làm việc ở đấy không?
- Có lắm chứ! Họ có nhận tôi không chị?
- Người ta nhận chị là cái chắc. Người ta nhận tất cả mọi người nếu
không thì tìm đâu ra bảy nghìn thợ làm việc trong các xưởng. Sáng mai,
lúc sáu giờ, mời chị đến chỗ cửa có song sắt của nhà kho. Nhưng chúng
mình nói chuyện nhiều rồi, mà tôi thì không được phép đến trễ!
- Cô ta cầm một quai giỏ Perin cầm bên kia. Hai cô bé đều bước, ở giữa đường.

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

Thời cơ thật thuận lợi để giúp Perin biết những điều có ích. Em chộp
lấy. Tuy nhiên, các câu hỏi của em phải rất khôn khéo như là nói chuyện
bâng quơ. Em phải khéo che đậy để người ta không thể đoán được ý muốn
của em.
- Chị sinh ra ở Marôcua?
- Tôi sinh ra ở đây, đúng thế! Mẹ tôi cũng thế. Bố tôi là người Píchkynhi.
- Bố mẹ chị không còn nữa sao?
- Ừ, tôi sống với bà. Bà tôi có một tiệm tạp hóa!
- Bà Prăngxoadơ?
- Chị biết bà tôi?
- Không… tôi chỉ nói – A, bà Prăngxoadơ thôi mà.
- Cả xứ này ai cũng biết bà tôi bởi vì bà tôi có cửa hiệu mà cũng vì
bà là nhũ mẫu của ông Étmông Panhđavoan. Khi người ta muốn yêu cầu ông
Vunphran cái gì, người ta thường đến nói với bà tôi.
- Bà giúp được người ta chứ?
- Cũng có khi được, có khi không. Ông Vunphran không phải lúc nào cũng dễ tính!
- Bà là nhũ mẫu của ông Étmông, tại sao bà không nói thẳng với ông ta?
- Nói với ông Étmông Panhđavoan ư! Ông ấy đã đi khỏi xứ này trước
khi tôi ra đời! Người ta không hề gặp ông ấy. Ông bố, ông con giận nhau
về công việc kinh doanh. Ông con được phái qua Ấn Độ để mua đay. À!
Nhưng chị chưa biết xưởng suốt, chắc chị cũng chưa biết cây đay.
- Một loại cỏ?
- Một loại cây gai, thứ lớn người ta thu hoạch ở Ấn Độ, rồi người ta
kéo sợi, dệt, nhuộm trong các xưởng ở Marôcua. Chính là cây đay đã cho
ông Vunphran cả một gia tài. Chị biết không, trước kia, ông cũng chẳng
giàu có gì đâu! Ông ta cũng phải đánh xe chở chỉ và những tấm vải của
dân địa phương dệt ở gia đình!
- Tôi nói với chị điều này bởi vì ông ta không hề giấu giếm chuyện ấy.
Cô gái dừng lại:
- Chúng ta đổi tay nhé?
- Tùy ý chị, chị… tên gì?
- Rôdali.
- Tùy ý chị, chị Rôdali ạ.
- Còn tên chị?
Perin không muốn nói tên thật, bèn đáp:
- Ôrêli.
- Chúng ta đổi tay, chị Ôrêli nhé.
Nghỉ ngơi một lát, họ lại đi, với nhịp bước đều đều. Perin trở lại ngay câu chuyện mà em đang quan tâm.
- Chị vừa nói ông Étmông giận ông bố nên đã ra đi…
- Và đi đến Ấn Độ thì cha con họ lại giận nhau ghê lắm! Ông Étmông
lấy một cô gái địa phương. Cuộc hôn nhân ấy không được ông bố thừa
nhận. Trong lúc đó, ở đây ông Vunphran muốn con trai cưới một cô tiểu
thư gia đình danh giá nhất xứ Picácđi này. Ông đã chuẩn bị cho cái đám
cưới ấy, xây dựng tòa lâu đài cho con trai và con dâu ở, tốn hàng
triệu, hàng triệu. Bất chấp tất cả, ông Étmông không muốn bỏ bà vợ bên
ấy để lấy cô tiểu thư bên này! Bố con họ giận nhau kịch liệt đến nỗi
ngày nay, người ta không biết ông Étmông còn sống hay đã chết. Có người
nói thế này, kẻ nói thế nọ. Đã bao nhiêu năm người ta không biết gì hết
vì không nhận được tin tức… theo như họ kể. ông Vunphran không nói
chuyện với ai. Những người cháu của ông cũng không nói gì cả!
- Ông Vunphran có cháu?
- Ông Têôđo Panhđavoan con ông anh và ông Casimia Brơtônơ, con bà
chị. Ông Vunphran nhận họ để giúp ông. Cái gia tài và tất cả các nhà
máy sẽ là của họ, nếu ông Étmông không trở về!
- Câu chuyện lạ thật!
- Nếu ông Étmông không trở về thì thật là buồn!
- Cho bố ông ấy?
- Và cũng rất buồn cho tất cả xứ này nữa chứ! Bởi vì người ta không
hiểu các nhà máy sẽ hoạt động như thế nào để nuôi sống mọi người khi
vào tay các ông cháu? Người ta đã nói nhiều về chuyện ấy. Hôm chủ nhật
khi tôi đứng bán hàng ở cửa hiệu cho bà tôi, tôi nghe người ta nói đủ
thứ chuyện!
- Về những người cháu?
- Ừ, về những người cháu và còn những người khác nữa! Nhưng đó chẳng phải là chuyện của chúng ta.
- Đúng thế!
Perin không muốn năn nỉ. Em lặng lẽ đi trong vài phút vì nghĩ rằng
Rôdali nhạy miệng sẽ không chần chừ trở lại câu chuyện bỏ dở. Đúng như
thế.
- Bố mẹ chị cũng sẽ ở Marôcua chứ? – Cô bé hỏi.
- Tôi không còn bố mẹ!

https://hvktqs.1forum.biz

admin

admin
1st
1st

- Không còn bố, cũng không có mẹ?
- Không còn bố, cũng không còn mẹ!
- Chị cũng như tôi, nhưng tôi còn có bà ngoại. Bà tôi rất tốt. Bà
tôi không muốn trái ý mấy ông cậu, bà dì, nếu không bà tôi còn tuyệt
vời hơn nữa! Không có họ, tôi chẳng phải đến xưởng làm việc đâu! Tôi ở
lại tiệm tạp hóa. Nhưng bà tôi không làm được cái điều mà bà mong muốn!
Còn chị! Chị chỉ có một thân, một mính sao?
- Và chị có ý nghĩ rời Paris đến Marôcua?
- Người ta nói tôi sẽ kiếm được việc làm ở Marôcua. Đáng lẽ tôi đi
thẳng đến chổ những người thân, nhưng tôi muốn biết Marôcua. Những
người bà con, khi mình không biết họ, thì mình cũng chẳng hiểu họ sẽ
đón tiếp mình như thế nào?
- Đúng thế, cũng có người tốt, người xấu.
- Thật thế!
- Này, đừng đi đâu cả! Chị sẽ tìm được việc ở nhà máy. Không kiếm
được nhiều đâu, mỗi ngày mười xu. Nhưng đó cũng là một món tiền. Rồi
chị sẽ có thể nhận được hai mươi hai xu. Tôi nói điều này. Trả lời hay
không là tùy ý chị. Chị có tiền không?
- Có chút ít.
- Này nhé, nếu chị muốn đến ở nhà mẹ Prăngxoadơ, chỉ phải trả mỗi tuần hai tám xu và trả tiền trước.
- Tôi có thể trả hai tám xu.
- Chị biết đấy, tôi không hứa với chị một phòng đẹp, dành riêng cho
chị với giá ấy. Phòng chỉ có sáu người, nhưng chị có giường nệm và
chăn. Không phải tất cả mọ người đều được như thế!
- Tôi nhận lời và xin cám ơn chị.
- Ở nhà bà tôi, không chỉ có những người trả mỗi tuần hai tám xu.
Trong ngôi nhà mới, chúng tôi cũng có những phòng đẹp cho nhân viên nhà
máy thuê: ông Phary, kỹ sư công trình, ông Môngclơ, kế toán trưởng, ông
Bendi, người được ủy nhiệm giao dịch với nước ngoài. Nếu chị có nói
chuyện với ông ấy, chị nhớ gọi ông Benđitơ. Ông là người Anh, nên nghe
gọi Benđi, ông tưởng là người ta chửi mình, cũng như ngươi ta goi mình
là “tên trộm” và nổi giận.
- Tôi sẽ nhớ, vả lại tôi biết tiếng Anh mà!
- Chị biết tiếng Anh?
- Mẹ tôi là người Anh.
- À, ra thế! Ông Benđi sẽ rất hài lòng được nói chuyện với chị! Nếu
chị biết tất cả các thứ tiếng thì ông lại càng thích chị! Chủ nhật, ông
ta nghỉ ngơi bằng cách đọc các bài Kinh Chủ nhật trong một cuốn sách có
in hai lăm thứ tiếng. Ông đọc xong, ông đọc lại rồi lại đọc lại nữa.
Chủ nhật nào cũng thế. Thật ra, ông ta là một người trung hậu.

https://hvktqs.1forum.biz

no_love90

no_love90
Thượng sĩ 6
Thượng sĩ 6

tôi chua cả đọc xong đã muốn Sad( rồi. dài quá

http://acmepeers.com/?u=bqkd

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 2 trang]

Chuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết